• Hiệu lực: Còn hiệu lực
HĐND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Số: 08-NQ/HĐND10
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hải Phòng, ngày 19 tháng 10 năm 1990

NGHỊ QUYẾT

Về chủ chương và biện pháp tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động

Thành phố Hải Phòng

______________

Hội đồng Nhân dân Thành phố khoá X tiến hành kỳ họp thứ 5 trong 3 ngày 17,18,19 tháng 10 năm 1990. Sau khi nghe Uỷ ban Nhân dân Thành phố báo cáo đề án giải quyết việc làm cho người  lao động. Thường trực HĐND thành phố báo cáo tổng hơp ý kiến cử tri; Ban Văn hoá - xã hội của HĐND Thành phố báo cáo thuyết trình;

Hội đồng Nhân dân Thành phố thảo luận và nhận định:

Những năm qua thành phố ta có nhiều cố gắng, hàng năm đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lượt người. Đồng thời từng bước điều chỉnh lại lực lượng lao động phù hợp với việc phát triển kinh tế xã hội của thành phố.

Kết quả đó là do sự cố gắng của các cấp, các nghành, các đoàn thể các đơn vị và sự đóng góp có hiệu quả của từng gia đình, từng người lao động.

Tuy vậy, hiện nay và những năm tới nhu cầu việc làm cho người lao động đặt ra hết sức câp bách. Số người lao động cần có việc làm ngày càng tăng: hàng năm có khoảng 27-28 ngàn người đến tuổi lao động. Bên cạnh đó là lực lượng lớn lao động dôi thừa trong khu vực kinh tế quốc doanh, tập thể và lao động hợp tác quốc tế về nước; bộ đội ra quân về địa phương... Làm cho số lao động thiếu việc làm ngày càng lớn, vượt quá khả năng thu hút của nền kinh tế xã hội thành phố; đang là mối quan tâm lo lắng của từng người lao động, từng gia đình, các cấp các nghành, các đơn vị.

Khó khăn chủ yếu hiện nay là do trình độ quản lý kinh tế, nhất là trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trong thành phố còn thấp kém, mức tăng trưởng kinh tế chậm trong lúc dân số tăng nhanh. Đặc biệt do quan niệm về việc làm còn nặng ý thức bao cấp, cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực nhà nước và tâp thể mới coi là có việc làm, trong khi các thành phần kinh tế khác đã được Nhà nước thừa nhận và khuyến khích phát triển. Cơ chế chính sách đối với người lao động thiếu đồng bộ và trong chừng mực nhất định chưa thật bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, làm cho người lao động trong các thành phần ngoài quốc doanh thiếu yên tâm.

Giải quyết việc làm cho người lao động gắn chặt với sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước và còn phụ thuộc mối quan hệ quốc tế. Trong điều kiện cụ thể của thành phố hiện nay và trong những năm tới, Hội đồng Nhân dân thành phố quyết nghị mhư sau:

1. Các nghành, các cấp, các đơn vị phải tâp trung tháo gỡ khó khăn để phát triển sản xuất trong mọi thành phấn kinh tế; phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Tập trung giải quyết vấn đề vốn theo hướng: đảm bảo hiệu quả theo luận chứng kinh tế kĩ thuật bằng các nguồn vay tín dụng Nhà nước, vay nước ngoài, huy động cổ phần liên doanh liên kết... Chú trọng đầu tư vào các nghành kinh tế có hiệu quả hoặc tạo thêm nhiều ngoại tệ, tái đầu tư nhằm mở rộng liên doanh liên kết trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong và ngoài nước để thu hút nhiều lao động xã hội;

Cần hoàn thiện cơ chế và đề xuất với Nhà nước bổ sung chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất để giải quyết việc làm tại chỗ là chính, các cấp, các nghành, các đơn vị tiến hành rà soát lại lực lượng lao động, tổng kết kinh nghiệm, xác định những mô hình tập thể, cá nhân làm ăn giỏi, có hiệu quả, xây dựng phương án giải quyết lao động ở các nghành, đơn vị địa phương mình, coi đó là nội dung quan trọng của việc xây dựng kế hoạch 1991.

Tiến hành sắp xếp lại một cách có tổ chức hệ thống dịch vụ trong mọi thành phần kinh tế. Quan tâm phát triển từng bước các nghành kinh tế, dich vụ đáp ứng sự phát triển hoat động của Đảng. Giao cho giám đốc các đơn vị kink tế, nhất là kinh tế quốc doanh phải có trách nhiệm tìm việc làm và bảo đảm thu nhập cơ bản cho người lao động của đơn vị mình. Các cơ quan đơn vị thuộc Trung ương đóng trên địa bàn thành phố khi có nhu cầu lao động, trước hết phải sử dụng lao động của thành phố.

2. Ở khu vực ngoại thành, chú trọng đầu tư đúng mức để thâm canh tăng năng suất cây trồng, con nuôi, đưa chăn nuôi (nhất là con lợn) thành một nghề chính. Mở rộng thêm diện tích trồng cây phủ xanh đồi trọc, phát triển cây vụ đông tăng vòng quay sử dụng đất; phát triển thêm nghành nghề, từng bước chế biến nông sản, thuỷ sản đạt yêu cầu xuất khẩu để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đẩy mạnh nuôi trồng khai thác thuỷ sản . Thu hồi những diện tích đất của các đơn vị đang sử dụng không hơp pháp hoặc kém hiệu quả, giao cho hộ nông dân sử dụng. Giải quyết đất canh tác cho lao động trong các cơ quan Nhà nước nghỉ việc về nông thôn. Đầu tư hợp lý nhằm đẩy mạnh việc xây dựng, điều động lao động và dân cư đến các vùng kinh tế mới trong và ngoài thành phố. Nghiên cứu đầu tư khai thác các thế mạnh để ổn định và thu hút thêm lao động, dân cư đối với huyện đảo Cát Hải.

3. Dành một phần ngân sách ở mỗi cấp để mở rộng sự nghiệp đào tạo mới, đào tạo lại và bổ túc nghề nghiệp cho người lao động. Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học ở nội và ngoại thành.

Sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp và dạy nghề trên địa bàn thành phố, tăng cường quản lý về mặt Nhà nước đối với các trường các trung tâm và các hình thức dạy nghề. Đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất cho các trung tâm dạy nghề huyện, quận, thị xã để tạo điều kiện giải quyết việc làm tại chỗ. Xúc tiến việc dạy nghề trong các trại cải tạo thanh thiếu niên hư. Khuyến khích việc dạy nghề truyền thồng, nghề gia truyền.

Mọi hình thức dạy nghề đều thực hiện theo hướng "Nhà nước và Nhân dân cùng làm". Tiếp tục hoàn thiện chính sách nhằm thu hút nhân tài, giữ vững và phát triển đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, nghiệp vụ giỏi đáp ứng kịp công cuộc đổi mới.

4. Tiếp tục thực hiện xuất khẩu lao động, kể cả lao động kỹ thuật theo hướng: xuất khẩu tại chỗ, cho thuê lao động có nghề, đưa lao động đi sản xuât kinh doanh ở trong và ngoài nước bằng biện pháp liên doanh liên kết giữa nghành với nghành, địa phương với điạ phương... Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tìm thị trường để tạo thêm nguồn việc làm cho thành phố.

5. Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tiếp tục xoá bỏ bao cấp trong lĩnh vưc lao động. Tăng cường giáo dục ý thức lao động và việc làm theo quan điểm mới: Những người làm những công việc có ích cho xã hội, được pháp luật cho phép, có thu nhập chính đáng đều được coi là có việc làm. Xoá bỏ quan niệm cho rằng có việc làm là phải làm trong khu vực quốc doanh và tập thể. Thực hiện tốt pháp lệnh hợp đồng lao động do Nhà nước vừa ban hành. Thực hiện bảo hiểm đối với người lao động thuộc thành phần klnh tế ngoài quốc doanh.

6. Hội đồng Nhân dân Thành phố yêu cầu các cấp, các nghành, các đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác tiềm năng, thế mạnh và mọi điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, thu hút và sử dụng có hiệu quả ngày càng nhiều lao động. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi giúp người lao động tìm việc hoặc tự tổ chức việc làm. Riêng với các đối tượng chính sách cần ưu tiên cả về thủ tục và sắp xếp việc làm. Đề nghị các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã hội theo chức năng của mình cần có kế hoạch tham gia vào chương trình giải quyết việc làm một cách thiết thực có hiệu quả.

Hội đồng Nhân dân Thành phố giao cho Uỷ ban Nhân dân Thành phố ban hành các quyết định cụ thể chỉ đạo các cấp, các nghành, các đơn vị trực thuộc, triển khai thực hiện Nghị quyết này và định kỳ báo cáo kết quả giải quyết việc làm cho người lao động ở địa phương, trước Hội đồng Nhân dân và cơ quan Nhà nước cấp trên./.

Chủ tịch

(Đã ký)

 

Lê Phong

Tải file đính kèm
 
This div, which you should delete, represents the content area that your Page Layouts and pages will fill. Design your Master Page around this content placeholder.