• Hiệu lực: Chưa xác định

 

 

NGHỊ QUYẾT

Về tình hình kinh tế-xã hội thành phố năm 2002; Nhiệm vụ năm 2003

_________

 

Hội đồng nhân dân thành phố khoá 12, họp kỳ thứ 9, từ ngày 8 - 10/01/2003. Sau khi nghe Uỷ ban nhân dân thành phố báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng thành phố năm 2002; Nhiệm vụ năm 2003. Báo cáo thẩm tra của các Ban Hội đồng nhân dân và ý kiến tham gia của cử tri thành phố.

Hội đồng nhân dân thành phố đã thảo luận và quyết nghị:

I. VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI; AN NINH - QUỐC PHÒNG THÀNH PHỐ NĂM 2002.

Hội đồng nhân dân thành phố  nhất trí với báo cáo của Uỷ ban nhân dân thành phố trình tại kỳ họp và nhấn mạnh một số vấn đề lớn sau đây:

Năm 2002, là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 12. Mặc dù còn nhiều khó khăn thử thách gay gắt... Song các cấp, các ngành, đoàn thể, toàn quân, toàn dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành toàn diện, vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2002 và trên một số lĩnh vực thể hiện tính vững chắc, xuất hiện nhiều mô hình, nhân tố mới. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt cao nhất từ năm 1996 trở lại đây, gấp 1,52 lần so với bình quân chung cả nước. Một số lĩnh vực mũi nhọn của kinh tế thành phố như: sản xuất công nghiệp, thuỷ sản, xuất khẩu, sản lượng hàng hoá thông qua Cảng, thu hút vốn đầu tư, thu chi ngân sách... đều tăng ở mức cao. Môi trường đầu tư được cải thiện, số lượng các dự án đầu tư tăng khá cao trên tất cả các lĩnh vực, nhất là sản xuất thép, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, sản xuất xi - măng... Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, du lịch, vận tải biển, xuất khẩu. Sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản vượt năng suất, sản lượng, xuất hiện  nhiều mô hình mới có kết quả. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị có chuyển biến rõ. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, thực hiện các chính sách xã hội đều có chuyển biến tích cực. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Hội đồng nhân dân thành phố biểu dương các cấp, các ngành, toàn dân, toàn quân thành phố, đã nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao, hoàn thành toàn diện, vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội thành phố năm 2002. Ghi nhận sự tiến bộ trong quản lý, đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân, trong điều hành của các cấp chính quyền, sự tham gia có  hiệu quả của các đoàn thể, các tổ chức xã hội.

Tuy nhiên, tình  hình kinh tế - xã hội thành phố còn nhiều yếu kém, tồn tại chủ yếu là: Chất lượng,  hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Chuẩn bị cho hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế chưa tập trung đúng mức. Đầu tư còn dàn trải, phân tán; thất thoát trong xây dựng cơ bản còn lớn. Thất thu ngân sách trong lĩnh vực nhà, đất, thu ngoài quốc doanh còn nhiều. Doanh nghiệp thua lỗ chậm được khắc phục. Khu vực kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh.

Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực chưa tốt, nhất là quản lý doanh nghiệp sau cấp phép, quản lý nhà đất; kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động thương mại. Cải cách thủ tục hành chính, phân cấp quản lý chậm. Môi trường đầu tư chưa thật sự thông thoáng, hấp dẫn, còn bỏ lỡ nhiều cơ hội. An ninh chính trị được giữ vững, nhưng còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Sức ép về việc làm, phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng. Hiện tượng tiêu cực, phiền hà, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, lây nhiễm HIV/AIDS đang làm cho nhân dân lo lắng. Đời sống của một bộ phận dân cư ở vùng sâu, vùng xa còn khó khân.

II. NHIỆM VỤ NĂM 2003.

Năm 2003, năm bản lề của kế hoạch 5 năm (2001 - 2005), là năm có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình thực  hiện Nghị quyết Đại hội Đảng  bộ thành phố lần thứ 12.

Để phấn đấu hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2003. Hội đồng nhân dân thành phố chủ trương: Động viên cao các nguồn lực cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tập trung phát triển một số ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn. Duy trì tốc độ phát triển, phấn đấu đạt tăng trưởng cao hơn năm 2002. Tăng cường biện pháp quản lý đất đai, quản lý và phát triển đô thị. Đề nghị Chính phủ công nhận Hải Phòng là đô thị loại I. Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá - xã hội; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma tuý, lây nhiễm HIV/AIDS. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, nâng cao đời sống nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chủ đề của năm 2003 là "Năm Doanh nghiệp - Hội  nhập".

A. NHỮNG CHỈ TIÊU CHỦ YẾU.

- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng từ 10,7 - 11,5% so với năm 2002, trong đó nông - lâm - ngư nghiệp tăng 5-5,5%, thuỷ sản tăng 20-22%. Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng 16 - 17%. Nhóm ngành dịch vụ tăng 8,5 - 9%

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 20-22%.

- Hàng hoá thông qua Cảng 11-11,5 triệu tấn.

- Khách du lịch đến thành phố đạt 1,68 triệu lượt khách, tăng 15%.

- Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 550 triệu USD, tăng 17%.

- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 7.200 - 7500 tỷ đồng.

- Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng từ 10 - 11%.

- Giải quyết việc làm cho 3,75 vạn lượt người.

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1%.

- Tỷ lệ hộ nghèo còn 8 - 8,5%.

B. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP LỚN.

1. Đẩy mạnh huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Tập trung cải thiện môi trường để thu hút đầu tư. Tiếp tục xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực trong và ngoài nước. Tích cực tranh thủ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư thông qua các Bộ, ngành Trung ương và các Tổng Công ty 90, 91 đầu tư vào Hải Phòng. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội. Phấn đấu đạt tổng vốn đầu tư từ 7.200 - 7.500 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài đạt 100 triệu USD trở lên, huy động nguồn nội lực đạt trên 70%.

Tăng cường quản lý sử dụng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư; Ưu tiên vốn cho 14 công trình trọng điểm, nhất là: Khu độ thị Ngã năm - Sân bay Cát Bi, đường Hồ Sen - Cầu Rào II, đường 353... các dự án về vệ sinh môi trường, nhà ở, nhất là xoá nhà tranh vách đất, giải quyết cơ bản nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội và cho người nghèo. Tăng đầu tư xây dựng, nâng cấp các thị trấn, thị tứ. Tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, công tác quy hoạnh, dự án xây dựng cảng nước sâu, nâng cấp sân bay Cát Bi. Kiên quyết chống chất thoát trong thực hiện đầu tư, xây dựng cơ bản.

2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giữ vững nhịp độ phát triển các ngành kinh tế trọng điểm.

Công nghiệp: Phát triển công nghiệp với tốc độ cao và ổn định. Đầu tư kỹ thuật công nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm. Ưu tiên đầu tư phát triển các ngành cơ khí, nhất là cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuỷ, sản xuất xi măng, sản xuất  hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến. Tạo điều kiện để triển khai nhanh các dự án sản xuất phân bón DAP, Nhà máy nhiệt điện 600MW, Nhà máy Xi măng Chinfon dây chuyền 2, sản xuất thép, đóng tàu có trọng tải lớn. Thực hiện các cơ chế chính sách ưu tiên về đất, vốn,... để phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp phục vụ nông nghiệp - nông thôn; nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Kiên quyết xử lý các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn 15.800 tỷ đồng, tăng 20 - 22% so với năm 2002. Sản phẩm chủ yếu: Xi măng 2 triệu tấn, sắt thép 80 vạn tấn, giầy dép 40 triệu đôi, Sơn: 4500 tấn.

Nông nghiệp, thuỷ sản và kinh tế nông thôn:  Chú trọng chỉ đạo, đầu tư thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương. Phấn đấu để thành phố trở thành trung tâm chế biến thủy sản và xuất khẩu nông sản của vùng Duyên Hải phía Bắc. Đẩy mạnh chế biến, sơ chế, bảo quản nông sản phẩm. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất toàn nhóm ngành tăng 5-5,5%, trong đó nông nghiệp 3%, năng suất lúa trên 10,5 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực trên 50 vạn tấn, giá trị sản xuất bình quân 1 ha canh tác đạt trên 37,2 triệu đồng.

Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết phát triển công nghiệp, nông - lâm - thuỷ sản cho từng vùng, từng địa phương, vùng cây con phục vụ chế biến, xuất khẩu. Hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, dồn điền, đổi thửa và hỗ trợ đầu tư phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, phát triển nghề truyền thống... Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ chuyển giao ứng dụng công nghệ mới để nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình nước sạch nông thôn, nâng cấp lưới điện, kiên cố hoá kênh mương, xoá nhà tranh vách đất, dự án phát triển thuỷ sản đã được phê duyệt. Xây dựng dự án mới về nuôi công nghiệp, nuôi đặc sản, dịch vụ - hậu cần, chế biến, xuất khẩu, bảo vệ  nguồn lợi. Phát huy tác dụng các dự án đánh cá xa bờ. Phấn đấu đạt sản lượng đánh bắt, nuôi trồng thủy sản trên 6,2 vạn tấn, giá trị xuất khẩu 75 triệu USD,  giá trị sản xuất toàn ngành 460 tỷ đồng, tăng 20 - 22%.

Chủ động phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai, tăng cường quản lý, bảo vệ, khai thác tài nguyên gắn với bảo vệ  môi trường, môi sinh.

Phát triển các ngành dịch vụ: Thực hiện tốt các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Mở rộng các hình thức kinh doanh dịch vụ như: đại lý, uỷ thác, mua hàng trả chậm, trả góp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hướng dẫn tiếp cận thị trường. Nâng cấp các cơ sở dịch vụ thương mại, hoàn thành việc xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm thương mại. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tìm thị trường mới. Tập trung đầu tư phát triển các ngành dịch vụ, phấn đấu đạt mức tăng của nhóm ngành là 9% trở lên. Sớm ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ xuất khẩu, phát triển thị trường, nhất là thị trường vốn, bất động sản, khoa học công nghệ. Tập trung thực hiện chiến lược và các chương trình xuất khẩu, phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 550 triệu USD. Tăng cường quản lý thị trường, chống gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. Khẩn trương xây dựng các điểm vui chơi giải trí ở khu du lịch Đồ Sơn, Cát Bà. Tập trung triển khai nhanh các dự án thuộc chương trình du lịch quốc gia. Đầu tư thoả đáng xây dựng các điểm du lịch rừng Thiên Văn, Núi Voi, đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phấn đấu thu hút trên 1,68 triệu lượt khách du lịch. Đầu tư để tăng năng lực vận tải đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không, mở thêm một số đường hàng không nội địa và quốc tế. Đẩy nhanh thực hiện dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn khoa học... Tiếp tục triển khai dự án cải tạo, nâng cấp Cảng Hải Phòng, đưa sản lượng hàng  hoá thông qua Cảng từ 11 đến 11,5 triệu tấn, tăng 10 - 12%. Phát triển bưu chính viễn thông để cuối năm 2003 đạt mật độ 12 máy điện thoại/100 dân phù hợp đô thị loại I.

3. Tăng cường quản lý, phát triển đô thị, tập trung chỉ đạo công trình lớn, trọng điểm.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 06 của Thành uỷ về phát triển và quản lý đô thị; tiếp tục thực hiện Nghị quyết 06 của Hội đồng nhân dân thành phố về lập lại trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và nếp sống văn minh đô thị. Hoàn chỉnh thủ tục trình Chính phủ công nhận Hải Phòng là đô thị loại I và tập trung cao sự chỉ đạo, đầu tư để thực hiện chương trình phát triển đô thị. Coi trọng quản lý xây dựng theo quy hoạch; sớm ban hành quy chế về xây dựng khu đô thị mới, cải tạo đô thị cũ, trong đó chú ý quản lý kiến trúc xây dựng đồng bộ, xử lý các trường hợp vi phạm... Triển khai thành lập quận mới và nhập 02 xã thuộc huyện An Hải vào quận Lê Chân. Chủ động phối hợp với Bộ Giao thông vận tải đề nghị Trung ương xây dựng cảng nước sâu tại Hải Phòng. Hoàn thành đề án quy hoạch xây dựng khu đô thị đường 353. Triển khai quy hoạch khu đô thị Bắc sông Cấm, các khu đô thị vệ tinh, thị trấn, thị tứ... Đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm: xây dựng Nhà máy Xi măng Tràng Kênh - Hải Phòng, cải tạo Cảng giai đoạn II, Nhà máy Nhiệt điện, cầu Kiến An, khu đô thị Ngã 5 - Sân bay Cát Bi, các khu tái định cư, xây dựng nhà ở khu Cựu Viên, An Đồng, xây dựng Trung tâm giáo dục lao động và hoà nhập cộng đồng... Đẩy nhanh tiến độ các dự án đường 10, xây dựng cầu Bính, cải tạo lưới điện nội thành, thoát nước 1B... Năm 2003 phấn đấu thực hiện có kết quả cao, tạo sự chuyển biến trong công tác quản lý, phát triển đô thị.

4. Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước; củng cố phát triển kinh tế ngoài quốc doanh; chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Năm 2003 với chủ đề "Doanh nghiệp và hội nhập", cần xây dựng nội dung, mục tiêu để triển khai thực hiện có hiệu quả. Đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3. Tập trung chỉ đạo, tạo mọi điều kiện giúp các doanh nghiệp xác định chiến lược kinh doanh, phương án đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá, bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp. Kiên quyết xử lý những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài. Thực hiện lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp. Chú trọng xây dựng, ban hành các cơ chế chính sách, tạo những sản phẩm mũi nhọn, có hàm lượng "chất xám" cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, quốc tế. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp, tạo sự thông thoáng, thiết thực; bảo đảm các hoạt động doanh nghiệp đúng luật, công bằng, lành mạnh. Tiếp tục có những cơ chế chính sách khuyến khích để kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân phát triển.

5. Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.

Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, tập trung vào việc góp phần xây dựng các cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội thành phố; ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, trước hết là ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm. Hướng dẫn các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường công tác quản lý môi trường, kiên quyết xử lý những trường hợp gây ô nhiễm, nhất là khu vực dân cư. Tiếp tục thực hiện di chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm ra ngoại thành, vào các khu công nghiệp tập trung.

Tiến hành cụ thể hoá mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để thực hiện phù hợp với chủ trương cải cách giáo dục hiện nay. Tăng cường biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, chú ý hệ thống ngoài công lập. Từng bước thực hiện phổ cập trung học phổ thông và nghề. Phấn đấu thêm 10% học sinh được học ở các trường học kiên cố. Khắc phục có hiệu quả những tiêu cực trong dạy thêm, học thêm tràn lan, không đúng quy định. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo. Tăng đầu tư cho giáo dục để thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá".

Chú trọng công tác phòng chống dịch bệnh, không để dịch bệnh xảy ra. Triển khai có hiệu quả các chương trình y tế có mục tiêu. Nâng cao chất lượng y tế cơ sở. Thực hiện đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, tạo chuyển biến rõ nét về y đức. Chấn chỉnh công tác quản lý đối với cơ sở hành nghề y dược tư nhân, thuốc chữa bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Triển khai thực hiện "Chiến lược dân số Việt Nam năm 2001 - 2010". Đẩy mạnh công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Đảm bảo tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1%.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 13 của Chính phủ về an toàn giao thông, ngăn chặn và giảm tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố.

Nâng cao hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các làng văn hoá, khu dân cư văn hoá, kinh doanh dịch vụ văn hoá, xuất bản báo chí. Nâng cao chất lượng phát thanh truyền hình. Đẩy mạnh phong trào thể thao quần chúng theo hướng xã hội hoá. Tập trung đầu tư cho lĩnh vực thể thao thành tích cao, giữ vững vị thế Hải Phòng là một trung tâm thể thao mạnh của cả nước. Chuẩn bị tốt điều kiện tham gia SEAGAMES 2003.

Thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về việc làm và các chương trình tài trợ nhân đạo, giải quyết việc làm ổn định cho 3,75 vạn lượt lao động. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, nhất là lao động phổ thông. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công với nước, đẩy mạnh các hoạt động tình nghĩa. Hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống 8 - 8,5% (theo chuẩn mới).

Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý. Kiên quyết khẩn trương triển khai xây dựng bằng được Trung tâm giáo dục lao động và hoà nhập cộng đồng tại huyện Thuỷ Nguyên. Hạn chế mức thấp nhất tai nạn giao thông, cháy nổ, lây nhiễm HIV/AIDS.

6. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện; đảm bảo an ninh - quốc phòng.

Các cơ quan Nhà nước, các đơn vị kinh tế tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức cho phù hợp theo hướng gọn nhẹ, giảm đầu mối, có hiệu lực để tiếp tục thực hiện cải cách  hành chính; Nhanh chóng khắc phục yếu kém trong quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện. Kiên quyết xử lý tổ chức và cá nhân vi phạm  kỷ luật hành chính, gây phiền hà, tiêu cực trong thi hành công vụ theo Nghị quyết về những giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2003 của Chính phủ.

Triển khai thực hiện sâu rộng chương trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị. Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tăng cường giáo dục pháp luật, tạo nếp sống kỷ cương trong nhân dân. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đẩy mạnh thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống tệ nạn xã hội, tăng cường đấu tranh ngăn chặn, làm giảm tội phạm; trọng tâm là công tác đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, các tội phạm hình sự nguy hiểm, tội phạm về ma tuý.

Nhiệm vụ năm 2003 rất nặng nề, Hội đồng nhân dân thành phố kêu gọi các cấp, ngành, đoàn thể, đơn vị, quân và dân thành phố quyết tâm phấn đấu hoàn thành toàn diện, vượt mức nhiệm vụ thành phố năm 2003, đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân./.

 

 

T/M.HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

CHỦ TỊCH

(Đã ký)

Trần Sáng

 

 
This div, which you should delete, represents the content area that your Page Layouts and pages will fill. Design your Master Page around this content placeholder.