THÔNG TƯ
LIÊN BỘ LÂM NGHIỆP - THUỶ LỢI SỐ 35/TT-LB NGÀY 18 THÁNG 8 NĂM 1980 QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ CÁC VÙNG ĐẦU NGUỒN SÔNG SUỐI LÀM NHIỆM VỤ PHÒNG HỘ, HẠN CHẾ LŨ LỤT,
KHÔ HẠN, XÓI MÒN.
Căn cứ vào điều 5 của Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng; căn cứ vào chỉ thị số 278 - TTg ngày 16 tháng 8 năm 1975 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân phối đất đai giữa nông nghiệp và lâm nghiệp;
Hai Bộ Lâm nghiệp và Thuỷ lợi ra thông tư liên bộ tạm thời quy định vùng đầu nguồn sông suối làm nhiệm vụ phòng hộ để hạn chế tác hại của lũ lụt, khô hạn và xói mòn - gọi tắt là vùng đầu nguồn phòng hộ.
I. TÁC DỤNG PHÒNG HỘ CỦA RỪNG VÀ HẬU QUẢ
CỦA VIỆC PHÁ RỪNG
Rừng là một bộ phận của môi trường sống, là một trong các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của nước ta. Rừng cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành kinh tế, phục vụ các nhu cầu trong đời sống của nhân dân và là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Rừng làm trong sạch bầu khí quyển, làm tăng vẻ đẹp của thiên nhiên, rừng còn có tác dụng đặc biệt trong việc phòng hộ, bảo vệ và cải tạo đất, giữ nước, điều hoà dòng chảy mặt, hạn chế tác hại của lũ, lụt, khô hạn...
Trong điều kiện ba phần tư đất đai nước ta là vùng đồi núi dốc, phức tạp, là nơi phát nguồn của các sông suối thì rừng ở đây lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt phòng hộ đầu nguồn.
Kết quả nghiên cứu tác dụng phòng hộ của rừng trong những năm qua ở nước ta đã cho thấy rõ:
1. Rừng đã ngừng chắn nước mưa, giữ lại một lượng nước đáng kể trên tán lá và trong tầng thảo mục rừng, chuyển một phần nước mặt sang nước ngầm góp phần làm giảm lượng dòng chảy lũ, hạ thấp lưu lượng đỉnh lũ.
2. Rừng có tác dụng bổ sung nước cho dòng chảy về mùa cạn. Thực tế cho thấy, ở những lưu vực được phủ kín rừng có lượng dòng chảy mùa cạn lớn hơn từ 2 đến 3 lần lưu vực không có rừng hoặc rừng đã bị tán phá nặng nề. Lượng dòng chảy này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và đời sống của nhân dân.
3. Rừng đã hạn chế xói mòn bề mặt, bảo vệ và cải tạo đất, làm cho nước trong sạch hơn, đất rừng ngày càng tốt hơn. Tán lá che chở cho đất rừng không bị nước mưa xói thẳng vào, lớp thảo mục do cành khô, lá rụng cùng với rễ cây chằng chịt ngăn cản dòng nước mặt giữ cho đất ít bị cuối trôi và làm dày thêm lớp mùn trên mặt đất, đất tơi xốp và giàu thêm các chất hữu cơ.
4. Những dải rừng bao quanh các hồ chứa nước đã biểu lộ tác dụng tích cực trong việc ngăn chặn bùn cát cuốn trôi ........hồ hạn chế bốc hơi mặt nước, duy trì và kéo dài tuổi thọ của các công trình thuỷ lợi.
Trong những năm gần đây nạn hạn hán và lũ lụt đã trở nên rất nghiêm trọng, đe doạ đời sống của nhân dân, ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân gây nên hậu quả này là do rừng bị tàn phá nặng nề. Trong vòng 30 năm trở lại đây, diện tích rừng bị thu hẹp lại rất nhiều. Nếu năm 1945, diện tích rừng là 14,5 triệu hécta, chiếm tỷ lệ 43% diện tích tự nhiên toàn quốc, thì đến năm 1975, chỉ còn 9,5 triệu hécta, chiếm tỷ lệ 29%. Như vậy rừng đã bị mất đi tới 5 triệu hécta. Trên diện tích rừng còn lại, chất lượng cũng xấu đi, rừng giầu và trung bình chỉ còn một phần ba, còn lại là rừng nghèo kiệt và rừng tre nứa.
Tình trạng phá rừng bừa bãi đã dẫn đến hậu quả là về mùa mưa lũ, đỉnh lũ cao hơn, lượng nước lũ lớn hơn, lũ dồn về nhanh hơn, gây nên nạn úng lụt trầm trọng. Về mùa cạn, mực nước trong sông hạ thấp, lưu lượng nước rất nhỏ, không đủ cung cấp cho các nhu cầu của nông nghiệp, công nghiệp và đời sống của nhân dân. Nạn xói mòn ghê gớm, làm mất đi hàng triệu tấn đất màu, ảnh hưởng xấu đến năng suất cây trồng. Bùn cát bồi lắng trong sông làm đáy sông bồi lở phức tạp, dung tích các hồ chứa nước bị thu nhỏ lại, thậm chí có hồ nhỏ bị bùn cát lấp gần hết. Đầu tư tiền của và nhân công cho việc chống hạn, chống úng lụt, nạo vét lòng sông hàng năm rất lớn.
Việc phòng chống lũ lụt, hạn hán, hạn chế xói mòn đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Một trong những biện pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ này là phải tích cực bảo vệ bằng được diện tích rừng hiện còn, nhanh chóng phục hồi các diện tích rừng đã bị tàn phá, đồng thời đẩy mạnh trồng rừng mới, nhất là ở những vùng đầu nguồn. Muốn vậy, việc trước tiên là phải sớm xác định được diện tích rừng và đất rừng ở đầu nguồn dành cho mục đích phòng hộ để từ đó xây dựng thành rừng đầu nguồn phòng hộ ổn định.
Nhằm mục đích đó, thông tư này bước đầu quy định một số căn cứ và diện tích cần thiết của các vùng đầu nguồn phòng hộ.
II. CĂN CỨ ĐỂ XÁC ĐỊNH VÙNG ĐẦU NGUỒN PHÒNG HỘ
Rừng có hai chức năng cơ bản là cung cấp lâm sản và phòng hộ. Để kết hợp lợi dụng cả hai chức năng đó, cần bố trí hợp lý giữa diện tích rừng và đất rừng dành cho phòng hộ và diện tích kinh doanh. Trong diện tích rừng phòng hộ, tuy mục đích phòng hộ là chủ yếu nhưng vẫn có thể kết hợp khai thác lợi dụng ở mức độ không làm tổn hại tới tác dụng phòng hộ của rừng. Ngược lại trong khu vực rừng kinh doanh vẫn phải lưu ý thích đáng tới tác dụng phòng hộ.
Hiện này Nhà nước chưa có văn bản quy định các tiêu chuẩn cụ thể để xác định diện tích các vùng đầu nguồn phòng hộ. Nhưng xuất phát từ yêu cầu thực tế cấp bách đã nêu trong mục I, tạm thời quy định một số căn cứ để khoanh vùng đầu nguồn phòng hộ như sau:
1. Khí hậu.
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới ẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa. Lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình từ 1500 đến 2000 mm, có nơi lớn tới hơn 3000 mm; lượng mưa này lại phân bố không đều, trong năm khoảng 70% đến 85% tập trung vào mùa mưa lũ.
Mưa là nguyên nhân chính tạo ra dòng chảy mặt và cũng là một nhân tố chủ yếu gây xói mòn và lũ lụt ở nước ta.
Ở những vùng tầm mưa lớn, có lượng mưa lớn hơn trung bình nhiều năm của vùng khí hậu, phải được đặc biệt bảo vệ, phát triển rừng đầu nguồn để tăng cường khả năng hạn chế tác hại của lũ lụt.
2. Địa hình.
Yếu tố địa hành ở đây chủ yếu là độ dốc.
Độ dốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ và làm sâu sắc hơn tác động xói mòn bề mặt của lượng nước mưa. Địa hình càng dốc, thời gian tập trung lũ càng ngắn, lũ về càng nhanh, tình trạng xói mòn càng mạnh gây nên nhiều tác hại nghiêm trọng.
Bước đầu đề nghị những vùng có độ dốc lớn hơn 45o sẽ khoanh làm vùng đầu nguồn phòng hộ và cần phải có rừng phủ kính để bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và giảm một phần tác hại của lũ lụt.
3. Đối với những vùng địa hình tuy không quá dốc (dưới 45o) hoặc không phải là vùng tâm mưa lớn, nhưng ở vị trí đầu nguồn của sông, suối lớn, nhất là các đồi bằng ở Tây Nguyên và miền đông Nam Bộ cũng cần dành một phạm vi nhất định cho việc phòng hộ đầu nguồn. Độ lớn tối thiểu của phạm vi này quy định là 10 đến 15% diện tích tự nhiên của lưu vực.
Trên những diện tích rừng dành cho phòng hộ đầu nguồn độ tán che cần duy trì là 0,7 - 0,8.
4. Rừng xung quanh hồ chứa nước.
Xung quanh các hồ chứa nước phải có đai rừng ngăn chắn đất cát trôi vào hồ và phòng chống xói lở bờ hồ, hạn chế sự bồi lấp lòng hồ. Đai rừng này phải có chiều rộng ít nhất từ 50 đến 150 m tuỳ theo quy mô và tính chất của hồ chứa nước.
III. DIỆN TÍCH PHÒNG HỘ TỐI THIỂU DÀNH CHO PHÒNG HỘ ĐẦU NGUỒN TRÊN CÁC LƯU VỰC
Theo các căn cứ nêu trong phần II trên đây, dự kiến diện tích tối thiểu dành cho phòng hộ đầu nguồn trên các lưu vực sông suối và dự kiến các địa điểm cần phải bảo vệ (biểu kèm theo)
Diện tích đầu nguồn phòng hộ tối thiểu của các lưu vực và các địa điểm cần bảo vệ
Số TT
|
Tên Sông
|
Chảy qua các tỉnh
|
Diện tích lưu vực (phần trong nước) (1000ha)
|
Diện tích đầu nguồn tối thiểu (1000ha)
|
Vùng đầu nguồn cần bảo vệ thuộc các huyện
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
1
|
Nậm Rốn
|
Lai Châu
|
165
|
20
|
Điện Biên (Lai Châu)
|
2
|
Sông Đà
|
Lai Châu, Sơn La, Hà Sơn Bình
|
2680
|
800
|
Điện Biên, Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ, Tủa Chùa (Lai Châu), Thuận Châu, Quỳnh Nhai (Sơn La)
|
3
|
Sông Thao
|
Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú
|
1200
|
200
|
Bát Sát, SaPa, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Bàn (Hoàng Liên Sơn), Thanh Sơn (Vĩnh Phú)
|
4
|
Sông Lô
|
Hà Tuyên, Vĩnh Phú
|
663
|
80
|
Quản Bạ, Vị Xuyên, Bắc Quang (Hà Tuyên)
|
5
|
Sông Gâm
|
Cao Bằng, Hà Tuyên, Bắc Thái
|
978
|
120
|
Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Vị Xuyên, Na Hàng, Chiêm Hoá (Hà Tuyên) Bảo Lạc, Chợ Rã (Cao Bằng)
|
6
|
Sông Chảy
|
Hoàng Liên Sơn Hà Tuyên, Vĩnh Phú
|
458
|
80
|
Mường Khương, Xí Ma Cai, Bắc Hà, Bảo Yên (Hoàng Liên Sơn), Hoàng Xu Phì, Xín Mần (Hà Tuyên)
|
7
|
Sông Phó Đáy
|
Hà Tuyên, Vĩnh Phú
|
160
|
20
|
Sơn Dương, Yên Sơn (Hà Tuyên), Tam Đảo (Vĩnh Phú)
|
8
|
Bằng Giang
|
Cao Bằng
|
456
|
60
|
Thông Nông, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Trà Lĩnh, Quảng Hoà, Trùng Khánh, Thạch An (Cao Bằng)
|
9
|
Sông Kỳ Cùng
|
Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái
|
666
|
80
|
Ngân Sơn (Cao Bằng), Na Rì (Bắc Thái), Tràng Định, Đình Lập, Lộc Bình (Lạng Sơn)
|
10
|
Sông Quây Sơn
|
Cao Bằng
|
116
|
15
|
Trùng Khánh (Cao Bằng)
|
11
|
Sông Cầu
|
Bắc Thái, Hà Bắc
|
605
|
80
|
Bạch Thông, Định Hoá, Đại Từ, Võ Nhai, Phú Lương (Bắc Thái)
|
12
|
Sông Thương
|
Lạng Sơn, Hà Bắc
|
358
|
50
|
Hữu Lũng, Chi Lăng (Lạng Sơn), Lục Ngạn (Hà Bắc)
|
13
|
Sông Lục Nam
|
Lạng Sơn, Hà Bắc
|
307
|
40
|
Đình Lập, Lộc Bình (Lạng Sơn), Sơn Động (Hà Bắc)
|
14
|
Các sông nhỏ vùng Quảng Ninh
|
Quảng Ninh
|
370
|
50
|
Móng Cái, Bình Liêu, Quảng Hà, Tiên Yên, Ba Chẽ, Hoành Bồ, Đông Triều (Quảng Ninh)
|
15
|
Sông Chu
|
Nghệ Tĩnh, Thanh Hoá
|
301
|
50
|
Quế Phong (Nghệ Tĩnh) Thường Xuân, Lương Ngọc (Thanh Hoá)
|
16
|
Sông Mã
|
Lai Châu Sơn La, Hà Sơn Bình, Thanh Hoá
|
1459
|
200
|
Điện Biên, Tuần Giáo (Lai Châu), Sông Mã, Thuận Châu, Mai Sơn, Mộc châu (Sơn La), Quan Hoá, Bá Thước (Thanh Hoá)
|
17
|
Sông Cả
|
Nghệ Tĩnh
|
1720
|
250
|
Mường Xén, Tương Dương Thanh Chương, Quế Phong, Quỳnh Châu, Quỳ Hợp, Hương Sơn, Hương Khê (Nghệ Tĩnh)
|
18
|
Bào Cái
|
Nghệ Tĩnh
|
50
|
10
|
Cẩm Xuyên (Nghệ Tĩnh)
|
19
|
Sông Gianh
|
Bình Trị Thiên
|
468
|
70
|
Tuyên Minh, Bố Trạch (Bình Trị Thiên)
|
20
|
Kiến Giang
|
Bình Trị Thiên
|
265
|
40
|
Lệ Ninh, Bố Trạch (Bình Trị Thiên)
|
21
|
Sông Bến Hải
|
Bình Trị Thiên
|
76
|
10
|
Bến Hải (Bình Trị Thiên)
|
22
|
Sông Thạch Hãn
|
Bình Trị Thiên
|
300
|
40
|
Triệu Hải, A Lưới, Hương Hoá (Bình Trị Thiên)
|
23
|
Sông Bồ
|
Bình Trị Thiên
|
80
|
10
|
Hương Điền, Hương Phú, A Lưới (Bình Trị Thiên)
|
24
|
Sông Hương
|
Bình Trị Thiên
|
150
|
20
|
Hương Phú, Phú Lộng (Bình Trị Thiên)
|
25
|
Sông Thu Bồn
|
Gia Lai - Kon Tum, Quảng Nam - Đà Nẵng
|
850
|
100
|
KôngpLông (Gia Lai - Kon Tum), Hiên, Giàng, Phước Sơn, Quế Sơn, Tiên Phước, Trà Mi (Quảng Nam - Đà Nẵng)
|
26
|
Sông Trà Khúc
|
Gia Lai - Kon Tum, Nghĩa Bình
|
206
|
30
|
KôngpLông (Gia Lai - Kon Tum), Sơn Hà,Nghĩa Minh (Nghĩa Bình)
|
27
|
Sông Vê
|
Nghĩa Bình
|
77
|
10
|
Ba Tơ, Nghĩa Minh (Nghĩa Bình)
|
28
|
Lai Giang
|
Nghĩa Bình
|
125
|
15
|
Hoà An, Tây Sơn (Nghĩa Bình)
|
29
|
Sông Kone
|
Gia Lai - Kon Tum, Nghĩa Bình
|
172
|
25
|
An Khê (Gia Lai - Kon Tum), Hoài An, Tây Sơn (Nghĩa Bình)
|
30
|
Sông Kỳ Lộ
|
Gia Lai - Kon Tum, Nghĩa Bình, Phú Khánh
|
185
|
25
|
AYunPa (Gia Lai - Kon Tum), Phước Vân (Nghĩa Bình), Tây Sơn, Đông Xuân (Phú Khánh)
|
31
|
Sông Ba
|
Gia Lai - Kon Tum, Đắc Lắc, Phú Khánh
|
1286
|
175
|
An Khê, Măng Yang, AYunPa (Gia Lai - Kon Tum), Krông Buk, MDrak (Đắc Lắc)
|
32
|
Sông Cái (Nha Trang)
|
Đắc Lắc, Phú Khánh
|
147
|
20
|
MDrak (Đắc Lắc), Diên Khánh (Phú Khánh)
|
33
|
Sông Cái (Phan Rang)
|
Thuận Hải, Phú Khánh
|
205
|
30
|
Cam Ranh (Phú Khánh), An Sơn (Thuận Hải)
|
34
|
Sông Luỹ
|
Lâm Đồng, Thuận Hải
|
195
|
30
|
Di Linh (Lâm Đồng), Bắc Bình (Thuận Hải)
|
35
|
Sông Cái (Phan Thiết)
|
Lâm Đồng,Thuận Hải
|
176
|
25
|
Di Linh (Lâm Đồng), Hàm Thuận (Thuận Hải)
|
36
|
Sông Dinh
|
Đồng Nai(Thuận Hải)
|
87
|
10
|
Xuân Lộc (Đồng Nai)
|
37
|
Sông Rây
|
Đồng Nai
|
128
|
15
|
Xuân Lộc (Đồng Nai)
|
38
|
Sông Sê - San
|
Gia Lai-Kon Tum
|
1270
|
150
|
Đắc Lây, Đắc Tô, Kông plông, Sa Thày, Măng Yang (Gia Lai - Kon Tum)
|
39
|
Sông Srêpốc
|
Gia Lai-Kon Tum, Đắc Lắc
|
1730
|
200
|
Chúp Rông (Gia Lai - Kom Tum), Đắc Min, Đắc Nông, Iasúp, Krôngpách, MDrak, Lắc (Đắc Lắc)
|
40
|
Sông Đồng Nai
|
Đồng Nai, Lâm Đồng, Sông Bé, Thuận Hải, Tây Ninh, thành Phố Hồ Chí Minh
|
3100
|
250
|
Đức Linh, (Thuận Hải), Đắc Nông (Đắc Lắc), Đức Trọng, Lạc Dương, Đơn Dương, Di Linh, Bảo Lộc (Lâm Đồng), Bình Long, Phước Long (Sông Bé), Dương Minh Châu, Tân Biên (Tây Ninh)
|
|
|
Cộng cả nước
|
23 900
|
3 500
|
|
IV. BIỆN PHÁP LÂM NGHIỆP ĐỂ XÂY DỰNG
RỪNG ĐẦU NGUỒN PHÒNG HỘ
Để hạn chế tác hại của lũ lụt, điều hoà dòng chảy, hạn chế xói mòn... cần kết hợp đồng thời giữa các biện pháp nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ lợi. Ở đây chỉ đề cập đến những chức năng thuộc lâm nghiệp và cùng chỉ giới hạn ở biện pháp xây dựng rừng đầu nguồn phòng hộ.
1. Đối với vùng có rừng:
- Phải giữ bằng được diện tích rừng hiện còn trong các lưu vực sông, suối đã khoanh thành vùng đầu nguồn phòng hộ.
Với những diện tích rừng xấu, nghèo kiệt, khả năng giữa nước, giữ đất đã sút kém cần khoanh lại thành khu vực cấm, đình chỉ kịp thời việc đốn cây, chặt củi hoặc tận thu lạm dụng lâm sản.
Ở những khu vực có những cây tái sinh tự nhiên chưa đạt yêu cầu cần có biện pháp tra dặm hạt hoặc cây con, nhân giống, xúc tiến việc phục hồi rừng.
Đối với những vùng rừng còn sản lượng, việc khai thác lâm sản phải theo đúng quy trình và thể lệ, không áp dụng phương thức khai thác trắng, cường độ khai thác không vượt quá lượng tăng trưởng của rừng. Ở đây chức năng phòng hộ vẫn phải được xem là chủ yếu.
- Phải chấm dứt ngay nạn phá đốt rừng làm nương rẫy khai hoàng, chăm thả gia súc bừa bãi và các hình thức phá rừng khác, đồng thời phải làm tốt công tác phòng chống cháy rừng.
2. Đối với vùng không còn rừng:
a. Khoanh nuôi, bảo vệ:
Ở những nơi mà lớp thực bì hiện diện tuy không còn là rừng (trảng cây lớn, cây bụi) nhưng khả năng giữ nước, giữ đất vẫn còn phát huy tác dụng, cần được khoanh giữ triệt để, tận dụng sức tái sinh mạnh của thực vật để xúc tiến việc phục hồi rừng.
Tuy có những hạn chế về mặt tốc độ thời gian, thiếu chủ động, song đây là biện pháp có ý nghĩa kinh tế về nhiều mặt (vốn đầu tư, giá thành, nhân lực...) có thể áp dụng trước mắt cả những khu vực chưa có điều kiện kinh doanh cao ở miền núi nước ta.
b. Trồng rừng.
Tuy là biện pháp tích cực nhưng gặp nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, về giống, nhân lực và vốn. Vì thế trước mắt chỉ nên thực hiện ở những vùng đầu nguồn xung yếu mà ở đó thực vật không còn khả năng tái sinh tự nhiên để trở thành thảm che tốt được, hoặc những vùng gần khu dân cư có điều kiện thuận lợi để xúc tiến việc trồng rừng.
Về loại cây trồng để cho mục đích phòng hộ cần chọn những loài cây sống lâu năm, có khả năng tái sinh tốt, có bộ rễ phát triển, có nhiều cành nhánh và tán lá rộng.
V. QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM CỦA NGÀNH THUỶ LỢI
VÀ NGÀNH LÂM NGHIỆP
1. Các Ty thuỷ lợi dựa vào các căn cứ đã nêu trong phần II, kết hợp với kế hoạch phân vùng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và yêu cầu trước mắt và tương lai cho ngành thuỷ lợi, đề xuất các vùng đầu nguồn cụ thể cần khoanh giữ để xây dựng thành vùng đầu nguồn phòng hộ, đặc biệt lưu ý các vùng đầu nguồn xung yếu. Cần xác định rõ phạm vi ranh giới của vùng, tính chất và mục đích phòng hộ và yêu cầu cần đảm bảo đối với các vùng đó.
2. Các Ty lâm nghiệp căn cứ vào phân vùng sản xuất lâm nghiệp, tình hình nhiệm vụ của ngành mình và theo đề xuất của ngành thuỷ lợi, cùng bàn bạc để đi đến nhất trí giữa hai bên về các địa điểm sẽ dành để xây dựng thành rừng đầu nguồn phòng hộ. Làm đề án xây dựng rừng đáp ứng các yêu cầu của rừng đầu nguồn phòng hộ.
Sau đó, hai ngành ở địa phương báo cáo lên Bộ chủ quản xem xét và trình Chính phủ phê duyệt để đưa vào kế hoạch triển khai xây dựng rừng đầu nguồn phòng hộ.
Trên đây là một số quy định tạm thời để xác định các vùng đầu nguồn phòng hộ của các sông, suối. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện còn phải điều chỉnh và bổ sung cho thích hợp với từng lưu vực, từng địa phương. Khi thực hiện có vướng mắc và ý kiến đề xuất, các đơn vị báo cáo về hai Bộ nghiên cứu giải quyết.