CHỈ THỊ
Về việc thực hiện Luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
-----------------------
Công tác thi hành án dân sự giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền khác, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Thời gian qua, cùng với sự chỉ đạo thống nhất, tập trung của Ủy ban nhân dân các cấp và sự cố gắng, khắc phục mọi khó khăn của cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự trong tỉnh nên công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tỷ lệ số việc và số tiền thi hành xong đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch của Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân tỉnh giao; chất lượng giải quyết các vụ việc không ngừng được nâng cao, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm, tạo được niềm tin của nhân dân đối với cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác thi hành án dân sự vẫn còn bộc lộ tồn tại, bất cập như: Các bản án, quyết định của Toà án các cấp có hiệu lực pháp luật và có điều kiện thi hành nhưng chưa được thi hành dứt điểm, dẫn đến tình trạng số lượng án tồn đọng chuyển sang năm sau thi hành khá nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do: Hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự trước đây còn nhiều hạn chế, vướng mắc; người phải thi hành án là các tổ chức và cá nhân chưa chấp hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; sự phối kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan với cơ quan Thi hành án dân sự chưa đồng bộ, thống nhất, đôi lúc còn thiếu nhất quán; đội ngũ cán bộ quản lý cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án còn thiếu về số lượng và một bộ phận còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ v.v...
Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, đồng thời triển khai, thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Nghị quyết số 24/2008/NQ-QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành; nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ thị Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự các cấp, Thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành có liên quan và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những nội dung sau:
1. Cục Thi hành án dân sự tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện và các cơ quan, đơn vị khác có liên quan tiếp tục tổ chức phổ biến, tuyên truyền sâu rộng nội dung Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo Chi cục Thi hành án dân sự chủ trì phối hợp cùng Phòng Tư pháp tổ chức phổ biến, tuyên truyền Luật Thi hành án dân sự đến từng thôn, buôn, tổ dân phố, cụm dân cư, các cơ quan, đơn vị trong phạm vi địa phương mình nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức và mọi công dân trong việc chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự để tự giác thi hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được cơ quan Thi hành án đưa ra thi hành.
3. Thủ trưởng cơ quan, ban, ngành, các tổ chức khác trên địa bàn tỉnh cần có biện pháp giáo dục người phải thi hành án thuộc cơ quan, tổ chức mình chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghĩa vụ được quy định trong bản án, quyết định của Toà án; đồng thời, có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên, cán bộ các cơ quan Thi hành án dân sự thi hành nhiệm vụ khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
4. Công an tỉnh chỉ đạo:
a. Lực lượng Cảnh sát cơ động, bảo vệ và hỗ trợ tư pháp; Công an các huyện, thành phố, thị xã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình bảo vệ cưỡng chế thi hành án theo đúng quy định của pháp luật.
b. Giám thị Trại tạm giam Công an tỉnh, Trưởng Công an các huyện, thành phố, thị xã nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án nộp để thi hành án và thực hiện thủ tục trả lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Luật Thi hành án dân sự.
5. Cục Thi hành án dân sự tỉnh tập trung củng cố, kiện toàn các cơ quan Thi hành án dân sự mà trọng tâm là củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cơ quan Thi hành án dân sự, đội ngũ Chấp hành viên đảm bảo đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Đồng thời, thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển để không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và khả năng tác nghiệp của Chấp hành viên và cán bộ thi hành án. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự. Phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nguồn cán bộ có trình độ, năng lực có bản lĩnh chính trị để bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan Thi hành án dân sự.
6. Giám đốc các Sở: Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ; Giám đốc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện và các cơ quan có liên quan khác:
a. Cử cán bộ chuyên môn tham gia Hội đồng tiêu huỷ tang vật, tiếp nhận tài sản sung công khi có yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự. Cung cấp thông tin giá thị trường, chất lượng hàng hoá đối với tài sản để thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự; cung cấp kịp thời thông tin về tài sản của người phải thi hành án theo yêu cầu, quyết định của Chấp hành viên và của người được thi hành án theo khoản 1 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP; thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án; đăng ký chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thi hành án theo yêu cầu, quyết định của Chấp hành viên.
b. Chỉ đạo đơn vị cấp dưới trực thuộc phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp trong việc thi hành án dân sự tại địa phương.
7. Giám đốc các cơ quan, đơn vị: Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội, Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đóng trên địa bàn có biện pháp chỉ đạo việc cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên và của người được thi hành án theo khoản 1 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP; thực hiện đầy đủ, kịp thời những yêu cầu của Chấp hành viên về phong toả tài khoản, tài sản, khấu trừ tiền trong tài khoản, khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
8. Các cơ quan Thi hành án dân sự tập trung rà soát, phân loại án có điều kiện và chưa có điều kiện thi hành còn tồn đọng để có biện pháp chỉ đạo, xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với án có điều kiện nhưng người phải thi hành án không tự giác thi hành, cố tình chây ỳ, chống đối việc thi hành án thì kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành dứt điểm. Trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự lựa chọn những việc có tính chất điển hình để thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, tập trung chỉ đạo cưỡng chế có hiệu quả, an toàn để nâng cao tác dụng giáo dục, răn đe đối với các đối tượng phải thi hành án cố tình chây ỳ việc thi hành án ở địa phương.
Đối với những vụ việc có số tiền và tài sản phải thi hành án có giá trị lớn hoặc có tính chất phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành thì phải báo cáo cấp uỷ, chính quyền địa phương, Ban chỉ đạo thi hành án để chỉ đạo, thống nhất các biện pháp và các lực lượng phối hợp, nhằm tổ chức thi hành án có hiệu quả, an toàn; đồng thời, kịp thời hỗ trợ tài chính để đảm bảo thi hành án. Đối với những vụ việc có đơn khiếu nại về thi hành án thuộc thẩm quyền giải quyết thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, không để đương sự khiếu kiện kéo dài, vượt cấp do không được giải quyết kịp thời, giải quyết không khách quan. Trong quá trình giải quyết nếu phát hiện có sai sót trong tác nghiệp phải được khắc phục, sửa chữa kịp thời, nếu có thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
9. Cơ quan Thi hành án dân sự các cấp phối hợp cùng các ngành có liên quan, tập trung giải quyết án tồn đọng, đặc biệt là án có điều kiện nhưng chưa được thi hành dứt điểm, phấn đấu năm 2010 và các năm tiếp theo tổ chức thi hành xong, đạt kết quả từ 80% trở lên về việc và 65% về tiền trên số có điều kiện thi hành, để từng bước hạn chế đi đến chấm dứt tình trạng án có điều kiện thi hành nhưng không được thi hành dứt điểm để tồn đọng, kéo dài gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
10. Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự trong việc thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án và các nhiệm vụ khác về thi hành án dân sự trên địa bàn; cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án khi người được thi hành án yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP.
11. Đề nghị Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với Cục Thi hành án dân sự tỉnh và chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể các cấp phổ biến sâu rộng đến toàn thể hội viên, đoàn viên Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản pháp luật khác có liên quan, nhằm nâng cao nhận thức trong từng hội viên, đoàn viên pháp luật về thi hành án dân sự; động viên những người phải thi hành án tự giác chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghĩa vụ quy định trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành.
Giao Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh có trách nhiệm theo dõi và đôn đốc các sở, ngành, đơn vị, tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp huyện và các Chi cục Thi hành án dân sự trong tỉnh thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này. Đồng thời, tổng hợp kết quả thực hiện nhiệm vụ báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh theo định kỳ hàng tháng, quý, sáu tháng và cả năm.
Yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành, tổ chức, đơn vị và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc kịp thời báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh (thông qua Cục Thi hành án dân sự tỉnh) để chỉ đạo giải quyết.
Chỉ thị này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký và thay thế Chỉ thị số 06/2005/CT-UB ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đẩy mạnh thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 nhằm tăng cường công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk./.