• Hiệu lực: Hết hiệu lực toàn bộ
  • Ngày có hiệu lực: 05/12/1990
  • Ngày hết hiệu lực: 01/07/2000
BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP-TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Số: 11/TTLN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hải Dương, ngày 20 tháng 11 năm 1990

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp

hướng dẫn xử lý một số loại tội phạm

__________________

 

Để góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với một số loại tội phạm, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp thống nhất hướng dẫn một số vấn đề sau đây:

1. Về việc nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài.

Trong việc xử lý các hành vi nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài nói chung vẫn áp dụng các hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 08/TTLN ngày 18-9-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do yêu cầu của tình hình mới, từ nay thống nhất lại một số điểm như sau:

a) Đối với các trường hợp lần đầu nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài với số lượng dưới 500 bao (mỗi bao 20 điếu) thì chưa coi là phạm tội, nhưng phải xử phạt hành chính.

b) Đối với các trường hợp nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài với số lượng từ 500 bao trở lên hoặc dưới 500 bao, nhưng đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp hoặc kèm theo việc chống người thi hành công vụ khi bị phát hiện hoặc xử lý, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu qua biên giới, tội vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới (Điều 97 Bộ luật Hình sự), tội buôn bán hàng cấm (Điều 166 Bộ luật Hình sự) hoặc tội đầu cơ (Điều 165 Bộ luật Hình sự nếu thuộc trường hợp đã nêu tại điểm 5 Thông tư liên ngành số 08/TTLN ngày 18-9-1990).

c) Đối với các trường hợp nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài với số lượng từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao thì phải coi là phạm tội trong trường hợp "vật phạm pháp có số lượng lớn", "hàng phạm pháp có số lượng lớn" (khoản 2 các Điều 97, 165, 166 Bộ luật Hình sự); nếu số lượng hàng phạm pháp là từ 4.500 bao trở lên thì phải coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" (khoản 3 các Điều 97, 165, 166 Bộ luật Hình sự).

d) Trong mọi trường hợp, hàng phạm pháp là thuốc lá điếu của nước ngoài phải bị tịch thu và xử lý theo quy định chung.

Điểm 1 của Thông tư này thay thế điểm 6 Thông tư số 08/TTLN ngày 18-9-1990.

2. Việc buôn bán kim loại màu (đồng, chì, nhôm, niken)

Trong việc xử lý những hành vi buôn bán trái phép kim loại màu, cần lưu ý một số điểm sau đây:

a) Hiện nay, kim loại màu được coi là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, chỉ những tổ chức, cá nhân được Nhà nước cho phép mới được kinh doanh.

b) Mọi trường hợp buôn bán kim loại màu ở các tỉnh biên giới, cũng như ở các địa phương không có biên giới với nước ngoài, nhằm bán trái phép qua biên giới đều bị coi là buôn lậu qua biên giới.

c) Đối với các trường hợp buôn lậu kim loại màu qua biên giới với số lượng dưới 50kg thì chưa coi là phạm tội, nhưng phải xử phạt hành chính.

d) Đối với các trường hợp buôn lậu kim loại màu qua biên giới với số lượng từ 50kg trở lên hoặc dưới 50kg nhưng đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp hoặc kèm theo việc chống người thi hành công vụ khi bị phát hiện hoặc xử lý thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu qua biên giới theo Điều 97 Bộ luật Hình sự.

đ) Đối với các trường hợp buôn lậu kim loại màu qua biên giới với số lượng từ 150kg đến dưới 450kg thì phải coi là phạm tội trong trường hợp "vật phạm pháp có số lượng lớn" (khoản 2 Điều 97 Bộ luật Hình sự); nếu số lượng hàng phạm pháp là từ 450kg trở lên thì phải coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" (khoản 3 Điều 97 Bộ luật Hình sự).

e) Đối với các trường hợp buôn bán kim loại màu không nhằm bán trái phép qua biên giới thì không coi là buôn lậu qua biên giới và tuỳ trường hợp cụ thể mà xử lý như sau:

- Nếu buôn bán các loại dây điện, dây thông tin liên lạc... do người khác phạm tội mà có, thì xử lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 201 Bộ luật Hình sự.

- Nếu buôn bán trái phép các loại kim loại màu không phải do người khác phạm tội mà có, thì xử lý về tội kinh doanh trái phép theo Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hành vi buôn lậu kim loại màu qua biên giới, các cơ quan tiến hành tố tụng cần quan tâm truy tìm những người đã huỷ hoại dây điện, dây thông tin liên lạc, vũ khí, công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc các loại tài sản xã hội chủ nghĩa khác để lấy kim loại.

g) Đối với các trường hợp huỷ hoại dây điện, dây thông tin liên lạc hoặc công trình phương tiện quan trọng khác về an ninh quốc gia, huỷ hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quận sự hoặc các loại tài sản xã hội chủ nghĩa khác để lấy kim loại nhằm bán trái phép qua biên giới, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà xử lý về tội phá huỷ công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 94 Bộ luật Hình sự) hoặc tội huỷ hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 269 Bộ luật Hình sự), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 138 Bộ luật Hình sự) và xử lý thêm về tội buôn lậu qua biên giới; nếu không có mục đích bán trái phép qua biên giới thì không xử lý thêm về tội buôn lậu qua biên giới.

3. Về việc buôn bán ngoại tệ

Theo Chỉ thị số 330-CT ngày 13-9-1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thì kể từ ngày 13-9-1990 việc quản lý ngoại hối được giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; tư nhân và các cơ sở kinh tế khác không được phép buôn bán ngoại tệ; do đó phải coi việc buôn bán ngoại tệ là buôn bán hàng cấm và xử lý như sau:

a) Đối với các trường hợp bán ngoại tệ mà người bán có một cách hợp pháp cũng như mua ngoại tệ nhằm mua hàng hoá để sử dụng thì không coi là phạm tội nhưng phải xử phạt hành chính.

b) Đối với các trường hợp buôn bán ngoại tệ, bán ngoại tệ mà người bán có một cách không hợp pháp, mua ngoại tệ nhằm dùng ngoại tệ đó mua hàng hoá để bán lại thu lợi bất chính đều phải coi là buôn bán hàng cấm và tuỳ trường hợp cụ thể mà xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể là:

- Đối với các trường hợp lần đầu buôn bán hàng cấm là ngoại tệ với số lượng có giá trị dưới 3 triệu đồng tiền Việt Nam thì chưa coi là phạm tội, nhưng phải xử phạt hành chính.

- Đối với các trường hợp buôn bán hàng cấm là ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 3 triệu đồng trở lên hoặc dưới 3 triệu đồng nhưng đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm theo Điều 166 Bộ luật Hình sự.

- Đối với các trường hợp buôn bán hàng cấm là ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 9 triệu đồng đến dưới 27 triệu đồng thì phải coi là phạm tội trong trường hợp "hàng phạm pháp có số lượng lớn" (khoản 2 Điều 166 Bộ luật Hình sự).

- Đối với các trường hợp buôn bán hàng cấm là ngoại tệ với số lượng có giá trị từ 27 triệu đồng trở lên thì phải coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" (khoản 3 Điều 166 Bộ luật Hình sự).

4. Về việc trốn thuế

a) Theo Điều 169 Bộ luật Hình sự thì trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm là phạm tội trốn thuế. Do đó, các trường hợp tư nhân, tổ chức tư nhân trốn thuế với số tiền thuế tương đương với giá trị của 5 tấn gạo trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu dưới mức 5 tấn gạo thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, đã tái phạm.

b) Trốn thuế với số lượng rất lớn (khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự) là trốn thuế với số tiền thuế tương đương với giá trị của 15 tấn gạo trở lên.

c) Đối với các trường hợp trốn thuế với số tiền có giá trị dưới 15 tấn gạo, nhưng kèm theo hành vi phạm tội khác có liên quan đến việc trốn thuế (thí dụ: đưa hối lộ, chống người thi hành công vụ...) thì phải coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" (khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự)*.

* Phần in nghiêng đã bị thay thế theo Thông tư liên ngành số 06 ngày 20-9-1996 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp.

5. Về việc đầu cơ

a) Trong tình hình hiện nay, đối với các trường hợp đầu cơ với số lượng hàng hoá tương đương với giá trị của dưới 5 tấn gạo thì chưa coi là phạm tội, nhưng phải xử phạt hành chính.

b) Đối với các trường hợp đầu cơ với số lượng hàng hoá tương đương với giá trị của 5 tấn gạo trở lên hoặc dưới 5 tấn gạo nhưng đã tái phạm, thực hiện nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh, thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đầu cơ theo Điều 165 Bộ luật Hình sự.

c) Đối với các trường hợp đầu cơ với số lượng hàng hoá tương đương với giá trị của từ 15 tấn gạo đến dưới 45 tấn gạo thì phải coi là phạm tội trong trường hợp "hàng phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn" (khoản 2 Điều 165 Bộ luật Hình sự).

d) Đối với các trường hợp đầu cơ với số lượng hàng hoá tương đương với giá trị của 45 tấn gạo trở lên thì phải coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" (khoản 3 Điều 165 Bộ luật Hình sự).

đ) Do việc cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá điếu của nước ngoài trên thị trường nước ta, nên hiện nay đã có hiện tượng đầu cơ thuốc lá nội. Đối với các trường hợp buôn bán trái phép thuốc lá nội với số lượng được nêu ở các điểm b, c, d trên đây thì tuỳ trường hợp mà truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đầu cơ theo các khoản tương ứng của Điều 165 Bộ luật Hình sự.

Đối với các trường hợp buôn bán trái phép thuốc lá nội với số lượng tương đương với giá trị của dưới 5 tấn gạo và không thuộc các trường hợp đã nêu ở điểm b thì tuỳ trường hợp cụ thể (căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm pháp và nhân thân của người có hành vi phạm pháp) mà truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán thuốc lá trái phép (Điều 183 Bộ luật Hình sự) hoặc xử phạt hành chính.

6. Về việc buôn lậu qua biên giới các chất ma tuý

Đối với các trường hợp sản xuất, tàng trữ, mua bán các chất ma tuý nhằm bán trái phép qua biên giới thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất, mua bán, tàng trữ các chất ma tuý (Điều 96a Bộ luật Hình sự) và tội buôn lậu qua biên giới (Điều 97 Bộ luật Hình sự); nếu có kèm theo việc xuất cảnh trái phép thì còn bị xử lý thêm về tội xuất cảnh trái phép (Điều 89 Bộ luật Hình sự).

7. Về việc xử lý phương tiện giao thông vận tải được dùng vào việc mua bán vận chuyển các chất ma tuý, buôn lậu qua biên giới, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Theo Điều 33 Bộ luật Hình sự thì Toà án có thể tịch thu vật và tiền bạc đã được dùng vào việc thực hiện tội phạm. Theo tinh thần của Chỉ thị số 308-CT ngày 10-11-1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương và biện pháp tăng cường chống buôn lậu thì một số loại phương tiện giao thông vận tải được dùng vào việc buôn lậu qua biên giới có thể bị tịch thu, trong trường hợp không tịch thu thì phạt tiền.

Về vấn đề này cần lưu ý như sau:

- Mọi phương tiện giao thông vận tải của tư nhân, của tổ chức tư nhân, của tổ chức kinh tế dù thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào, mà được chủ sở hữu dùng vào việc mua bán, vận chuyển các chất ma tuý, buôn lậu qua biên giới, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đều phải bị tịch thu theo Điều 33 Bộ luật Hình sự.

- Các phương tiện giao thông vận tải của các cơ quan Nhà nước không có chức năng kinh doanh, tổ chức xã hội mà được chủ phương tiện dùng vào việc thực hiện các tội nói trên thì cũng có thể bị tịch thu, trừ các phương tiện lớn như máy bay, xe lửa, tàu thuỷ, phương tiện chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Trong trường hợp không tịch thu phương tiện thì phải phạt tiền theo quy định tại các điều tương ứng của Bộ luật Hình sự.

8. Đối với những người phạm các tội đã nêu trong Thông tư này nếu khi bị phát hiện hoặc xử lý còn có hành vi đưa hối lộ, chống người thi hành công vụ... thì tuỳ trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội tương ứng.

9. Để góp phần có hiệu quả vào việc đấu tranh chống các loại tội phạm đã được nêu trong Thông tư này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần lưu ý như sau: Đối với các trường hợp mà kẻ phạm tội bị phát hiện cùng với hàng phạm pháp thì cần khẩn trương trong tất cả các khâu (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) để giải quyết các vụ án trong thời gian ngắn nhất. Cần nắm vững và thực hiện thật đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hướng dẫn của liên ngành và từng ngành về việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để tránh những trường hợp kéo dài một cách không cần thiết thời gian điều tra, truy tố, xét xử.

 

KT. BỘ TRƯỞNG Bộ Nội vụ
Thứ trưởng

KT. BỘ TRƯỞNG Bộ Tư pháp
Thứ trưởng

(Đã ký)

(Đã ký)

  

Phạm Tâm Long

Trần Đông

KT. VIỆN TRƯỞNG Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Phó Viện trưởng

KT. CHÁNH ÁN Toà án nhân dân tối cao
Phó Chánh án

(Đã ký)

(Đã ký)

  

Lê Thanh Đạo

Trịnh Hồng Dương

Tải file đính kèm
 
This div, which you should delete, represents the content area that your Page Layouts and pages will fill. Design your Master Page around this content placeholder.