THÔNG TƯ
CỦA BỘ XÂY DỰNG - UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC - BỘ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM SỐ 01/TTLB NGÀY 9/3/1991
Thi hành Điều lệ quản lý Xây dựng cơ bản ban hành kèm theo Nghị định số 385/HĐBT ngày 7/11/1990 của Hội đồng Bộ trưởng
Ngày 7/11/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định số 385/HĐBT ban hành Điều lệ quản lý Xây dựng cơ bản ban hành kèm theo Nghị định số 232/CP ngày 6/6/1981 của Hội đồng Chính phủ.
Thực hiện Điều 3 của Nghị định và Điều 49 của Điều lệ quản lý Xây dựng cơ bản, Liên Bộ Xây dựng - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước - Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chung một số vấn đề cấp bách nhằm triển khai kịp thời Điều lệ quản lý Xây dựng cơ bản như sau:
I. CHỦ ĐẦU TƯ
1. Chủ đầu tư công trình xác định như sau:
- Công trình thuộc sở hữu tư nhân thì chủ đầu tư là người chủ sở hữu vốn;
- Công trình thuộc sở hữu tập thể, liên doanh (hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ...) thì chủ đầu tư là người đại diện hợp pháp theo luật định của tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói trên trong việc quản lý khai thác, sử dụng công trình đầu tư (chủ nhiệm hợp tác xã, chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty).
- Công trình thuộc sở hữu Nhà nước (nguồn vốn đầu tư chủ yếu lấy từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, vốn tự bổ sung của xí nghiệp quốc doanh, tài sản hiện có do Nhà nước quản lý), thì chủ đầu tư là thủ trưởng đơn vị được Nhà nước giao quyền trực tiếp quản lý vốn, xây dựng, khai thác sử dụng công trình và chịu trách nhiệm bảo toàn vốn được giao.
2. Trách nhiệm của chủ đầu tư:
- Thực hiện những công tác chuẩn bị đầu tư quy định trong Điều 7, công tác chuẩn bị xây dựng quy định trong điểm 1 Điều 15 của bản Điều lệ quản lý Xây dựng cơ bản.
- Chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc tổ chức đấu thầu hoặc giao thầu theo đúng quy chế của Nhà nước để ký kết hợp đồng giao nhận thầu.
- Lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và kế hoạch tài chính đầu tư, chịu trách nhiệm sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả.
- Chuyển giao kịp thời theo tiến độ xây dựng cho đơn vị nhận thầu xây lắp mặt bằng xây dựng, tài liệu thiết kế dự toán đã được phê duyệt; giám sát kiểm tra kỹ thuật, chất lượng công trình, nghiệm thu và thanh toán kịp thời khối lượng công việc đã thực hiện cho các bên nhận thầu theo hợp đồng kinh tế, đúng thiết kế dự toán được duyệt.
- Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết đưa công trình vào sử dụng đúng thời hạn quy định và bảo đảm hiệu quả đầu tư theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt.
- Quyết toán vốn đầu tư đã thực hiện theo chế độ quy định.
- Khai thác và sử dụng công trình có hiệu quả. Bảo đảm hoàn trả vốn đầu tư đối với tất cả các công trình thuộc đối tượng phải thu hồi vốn.
Đối với công trình vay vốn nước ngoài, nếu chủ đầu tư trực tiếp vay thì phải có trách nhiệm trả cả vốn và lãi theo hợp đồng vay vốn.
3- Ban quản lý công trình:
Ban quản lý công trình là tổ chức của chủ đầu tư, do chủ đầu tư quyết định thành lập, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của chủ đầu tư trong việc thực hiện quản lý xây dựng từ giai đoạn chuẩn bị xây dựng, xây lắp đến khi bàn giao đưa công trình vào sản xuất, sử dụng. Ban quản lý công trình chỉ thành lập (khi cần thiết) ở các công trình xây dựng mới trên hạn ngạch, kỹ thuật, phức tạp, có thời hạn xây dựng từ 1 năm trở lên. Quy mô và số lượng cán bộ công nhân viên của Ban quản lý công trình được xác định trên cơ sở bảo đảm hoàn thành công tác quản lý xây dựng công trình và trong phạm vi chi phí cho việc quản lý xây dựng đã được quy định trong tổng dự toán được duyệt.
Đối với các công trình khác còn lại thì không lập ban quản lý công trình. ở các công trình này công tác quản lý xây dựng công trình sẽ do các bộ phận tương ứng trong bộ máy quản lý sẵn có của chủ đầu tư thực hiện. Chủ đầu tư được sử dụng kinh phí quản lý xây dựng theo quy định của Nhà nước để thực hiện các hoạt động về quản lý xây dựng công trình. Chủ đầu tư có thể giao cho các tổ chức khảo sát, thiết kế, nghiên cứu khoa học, các trường đại học, các trung tâm thí nghiệm hoặc kiểm định chất lượng được Bộ Xây dựng hoặc các Bộ quản lý chuyên ngành xây dựng công nhận có đủ trình độ, tư cách pháp nhân và được cấp giấy hành nghề thực hiện chức năng giám sát kinh tế, kỹ thuật của chủ đầu tư thông qua hợp đồng kinh tế.
Ban quản lý công trình có thể được giao quản lý một cụm công trình thuộc cùng một chủ quản đầu tư nếu bảo đảm được chất lượng và hiệu quả quản lý xây dựng, theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng.
II- VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1- Vốn đầu tư xây dựng của Nhà nước gồm vốn đầu tư cho công tác khảo sát xây dựng, quy hoạch xây dựng và vốn đầu tư cho các công trình xây dựng.
2- Vốn đầu tư cho công tác khảo sát, quy hoạch bao gồm chi phí khảo sát xây dựng, quy hoạch tổng thể, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch phát triển của các ngành. Vốn này được xác định trên cơ sở khối lượng công tác khảo sát, quy hoạch cần thiết trong kỳ kế hoạch và định mức, đơn giá do Nhà nước ban hành, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng phối hợp với một số Bộ phụ trách quy hoạch ngành và địa phương để xây dựng kế hoạch khảo sát, quy hoạch trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
3- Vốn đầu tư xây dựng công trình bao gồm chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và chi phí khác ghi trong tổng dự toán của công trình đó. Nội dung các khoản mục chi phí trong tổng dự toán công trình theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng.
III- CHUẨN BỊ ĐẦU TƯ
1- Dự án tiền khả thi (dự án sơ bộ) do chủ đầu tư lập theo hướng dẫn của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Xây dựng để trình cơ quan có thẩm quyền thông qua. Riêng đối với những công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định cơ cấu và tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân thì chủ quản đầu tư trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt sau khi có ý kiến của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng và Ngân hàng đầu tư và phát triển (được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam uỷ nhiệm), không cần qua Hội đồng thẩm tra luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
2. Các công trình hợp tác, liên doanh với nước ngoài ghi tại Điều 10 trong Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản được hiểu là các công trình đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nội dung luận chứng kinh tế - kỹ thuật, việc phân cấp thẩm tra, xét duyệt đối với các công trình đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài áp dụng theo các quy định chung của Nhà nước đối với các công trình đầu tư. Riêng các công trình đầu tư 100%vốn nước ngoài luận chứng kinh tế kỹ thuật do bên nước ngoài lập thỉ Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư cùng với ngành hoặc địa phương có công trình sẽ thay mặt chủ đầu tư gửi hồ sơ luận chứng kinh tế - kỹ thuật tới các thành viên của Hội đồng thẩm tra, bảo vệ Luận chứng kinh tế - kỹ thuật trước Hội đồng thẩm tra và cơ quan xét duyệt.
3. Luận chứng kinh tế - kỹ thuật hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật của các công trình thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phải gửi cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và Hội đồng thẩm tra, luận chứng kinh tế kỹ thuật của tỉnh, thành phố để xem xét làm cơ sở cho việc cấp giấy phép xây dựng và giấy phép kinh doanh.
4. Hạn ngạch công trình: trong khi chờ Nhà nước ban hành lại quy định về phân loại và phân cấp quản lý công trình đầu tư tạm thời áp dụng tiêu chuẩn phân định hạn ngạch công trình trong phụ lục kèm theo Thông tư Liên Bộ này.
5. Báo cáo kinh tế kỹ thuật:
a) Báo cáo kinh tế kỹ thuật phải lập theo đúng quy định của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Xây dựng.
b) Những công trình dưới hạn ngạch có những đặc điểm sau đây thì không cần lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật mà chỉ lập báo cáo kinh tế kỹ thuật.
- Nhà ở cao tầng, nhà ở đơn chiếc trong các tiểu khu ở, các công trình công cộng, trụ sở cơ quan, cơ sở nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo, các công trình văn hoá nghệ thuật (không kể truyền thanh và truyển hình), các công trình y tế, bảo hiểm xã hội, các công trình thể thao... nằm trong quy hoạch xây dựng chi tiết đã được duyệt và sử dụng thiết kễ mẫu, thiết kế điển hình.
- Bệnh viện cấp quận, huyện nhỏ hơn 100 giường.
- Hệ thống chuyển tải điện hạ thế dưới 35KV đã có quy hoạch được duyệt.
- Hệ thống kênh mương tươi tiêu đã có quy hoạch được duyệt với quy mô nhỏ hơn 1000 ha ở đồng bằng và nhỏ hơn 200 ha ở miền núi, trung du.
- Các kho thông dụng đơn chiếc (trừ kho xăng, dầu).
- Các công trình phụ trợ bổ sung cho các công trình đang sử dụng.
- Cầu, đường bộ có thiết kế mẫu, thiết kế điển hình.
- Các loại công trình dưới hạn ngạch và kỹ thuật đơn giản khác do chủ quản đầu tư quyết định sau khi thống nhất với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước.
c) Báo cáo kinh tế - kỹ thuật do chủ quản đầu tư xét duyệt.
6. Thành phần hội đồng thẩm tra luận chứng kinh tế - kỹ thuật cấp ngành và địa phương.
a) Cấp ngành:
- Chủ tịch Hội đồng; thủ trưởng ngành.
- Các thành viên chính: Vụ Xây dựng cơ bản, Vụ Kế hoạch, Vụ quản lý chuyên ngành, Vụ Kinh tế tài chính, Vụ Quản lý khoa học, Viện kinh tế.
-Các thành viên khác: cơ quan cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư, đại diện các ngành (kế hoạch, tài chính, khoa học, xây dựng, ngân hàng), địa phương có liên quan và các chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực quan trọng của công trình.
b) Địa phương:
- Chủ tịch Hội đồng: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch tỉnh, thành phố.
- Các thành viên chính: Uỷ ban Kế hoạch tỉnh, Sở Tài chính, Sở Xây dựng, Sở chuyên ngành (công trình thuộc ngành nào thì ngành đó tham gia); ban Khoa học tỉnh, chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển.
- Các thành viên khác: cơ quan cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư, các chuyên gia đầu ngành trong nước về lĩnh vực quan trọng của công trình và đại diện ngành chủ quản và các ngành có liên quản ở Trung ương (đối với công trình trên hạn ngạch).
7. Kinh phí cho việc lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, báo cáo kinh tế kỹ thuật và kinh phí cho việc thẩm tra luận chứng kinh tế kỹ thuật do Bộ Xây dựng quy định. Trước mắt, kinh phí cho việc lập luận chứng kinh tế kỹ thuật vẫn áp dụng theo quy định hiện hành; kinh phí cho việc lập báo cáo kinh tế kỹ thuật bằng 1% giá thiết kế công trình; kinh phí cho việc thẩm tra luận chứng kinh tế - kỹ thuật trích trong kinh phí lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật và không vượt quá 5% của kinh phí lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
Việc thẩm tra dự án tiên khả thi và báo cáo kinh tế kỹ thuật không có kinh phí riêng.
IV- QUẢN LÝ THIẾT KẾ VÀ DỰ TOÁN
1. Về thiết kế:
- Thiết kế phải bán sát và đáp ứng các yêu cầu đề ra trong luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt và phải tuân theo quy trình, quy phạm, định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn Nhà nước.
- Thiết kế kỹ thuật (hoặc thiết kế kỹ thuật - thi công) và tổng dự toán của công trình của các tổ chức quốc doanh phải qua thẩm tra và xét duyệt theo quy định của Bộ Xây dựng.
Việc xét duyệt thiết kế các công trình của các thành phần kinh tế khác theo hướng dẫn riêng của Bộ Xây dựng.
- Thiết kế xây dựng các công trình nước ngoài đầu tư vào Việt Nam phải qua thẩm tra theo những quy định của Nhà nước.
- Việc thiết kế các công trình quan trọng của Nhà nước phải do các tổ chức thiết kế có tư cách pháp nhân đủ trình độ và năng lực cần thiết được Bộ quản lý chuyên ngành xây dựng chấp nhận, đứng ra đảm nhận thầu chính và thiết kế.
2. Quản lý dự toán:
a) Tất cả các công trình xây dựng đều phải lập tổng dự toán theo thiết kế được duyệt, các định mức, đơn giá tổng hợp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để làm căn cứ quản lý vốn đầu tư. Về nguyên tắc tổng dự toán là giới hạn tối đa vốn được sử dụng cho toàn bộ công trình.
Tổng dự toán được lập theo mặt bằng giá ở thời điểm tính toán tại nơi xây dựng công trình và được điều chỉnh theo chỉ số giá ở từng thời kỳ do Bộ Xây dựng thống nhất với các cơ quan chức năng Nhà nước công bố.
Để lập kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho năm sau, hàng năm, vào đầu quý IV các chủ quản đầu tư căn cứ vào chỉ số giá để tính quy đổi tổng dự toán đã được duyệt về mặt bằng giá hiện tại; cùng với cơ quan Kế hoạch, Tài chính, Ngân hàng xác định đúng số vốn đã thực hiện và số vốn cần thiết cho những phần khối lượng còn lại (không cần lập lại dự toán qua mỗi lần thay đổi giá).
Những công trình được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép thiết kế kỹ thuật theo đợt hoặc giai đoạn xây dựng thì tổng dự toán cũng được lập cho từng đợt hoặc giai đoạn; trong trường hợp đó, tổng dự toán của toàn bộ công trình phải được lập và trình duyệt cùng một lúc với hồ sơ thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán của đợt hoặc giai đoạn cuối cùng của công trình.
b) Trong trường hợp đặc biệt, nếu công trình chưa đủ điều kiện để lập tổng dự toán nhưng có những hạng mục cần thiết phải thi công xây dựng và được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì dự toán từng hạng mục công trình dó nhất thiết phải do cơ quan xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật của công trình đó xét duyệt. Nếu công trình do Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật thì dự toán từng hạng mục công trình sẽ do chủ quản đầu tư xét duyệt (không được uỷ nhiệm).
- Những công trình thông dụng (nhà ở, cửa hàng, trường học, đường xá, cầu cống, kênh mương...) đã có giá chuẩn tính cho 1 đơn vị diện tích hoặc sử dụng (1 m2 xây đựng, 1 km đường, 1 km cầu, cống) do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành thì coi đây là mức tối đa được sử dụng, nhất thiết không được vượt.
Đối với những công trình thuộc sở hữu Nhà nước nếu thực hiện vượt quá 5% tổng dự toán được duyệt (không kể trượt giá) thì chủ đầu tư phải giải trình và được cơ quan xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật chấp thuận bằng văn bản thì mới được bổ sung vốn.
c) Các ngành, địa phương cần tăng cường và kiện toàn các bộ phận quản lý xây dựng cơ bản (Vụ Quản lý Xây dựng cơ bản ở các Bộ, Phòng thẩm định thiết kế và Phòng kinh tế ở Sở xây dựng địa phương) đặc biệt là bộ phận quản lý thiết kế dự toán. Đối với các công trình thuộc sở hữu Nhà nước dự toán lập theo thiết kế bản vẽ thi công đều phải có cơ quan quản lý xây dựng cơ bản nêu trên thẩm tra và trình chủ quản đầu tư xét duyệt. Chỉ phân cấp cho cơ quan quản lý cấp trên của chủ đầu tư duyệt dự toán của những công trình thuộc diện được lập báo cáo kinh tế kỹ thuật. Các ngành, địa phương có thể trích trong chi phí quản lý công trình số kinh phí cần thiết cho hoạt động xét duyệt này.
d) Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra và quản lý chặt chẽ khối lượng xây lắp. Những khối lượng tăng thêm so với thiết kế được duyệt do mọi nguyên nhân đều phải được chủ quản đầu tư xét duyệt lại, có sự thoả thuận của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính.
e) Chi phí lán trại, chỉ tính theo yêu cầu thực tế trong thiết kế tổ chức thi công và thể hiện trong tổng dự toán theo nguyên tắc: chỉ áp dụng chi phí này đối với những công trình mới khởi công, ở xa khu dân cư, những công trình theo tuyến (đường xá, kênh mương, đường dây, đường lâm nghiệp) thật sự cần thiết xây dựng nhà làm việc tạm thời, lán trại cho công nhân tại hiện trường; không áp dụng đối với các công trình xây dựng ở trong thành phố, thị xã, thị trấn và khu đân cư tập trung. Bộ Xây dựng hướng dẫn theo dõi và kiểm tra việc thực hiện chi phí này của các ngành và địa phương.
Căn cứ vào nguyên tắc này cơ quan xét duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật quyết định đối với từng công trình.
Riêng trong năm 1991, đối với những công trình chuyển tiếp thuộc diện được hưởng chi phí lán trại, nếu có nhu cầu cần thiết bổ sung hoặc duy trì lán trại đã có thì phải lập dự toán chi phí và được chủ quản đầu tư xét duyệt.
V- GIAO NHẬN THẦU XÂY LẮP
1. Việc xây lắp công trình được thực hiện thông qua hợp đồng xây lắp dựa trên kết quả đấu thầu hoặc giao thầu giữa chủ đầu tư với các tổ chức xây lắp có tư cách pháp nhân, đúng ngành nghề theo đăng ký được cấp theo quy chế của Nhà nước.
Các chủ đầu tư không có tổ chức xây lắp được hành nghề xây dựng thì không được đứng ra tổ chức tự làm công trình của mình (trừ trường hợp sửa chữa và cải tạo nhỏ). Đối với công tác xây dựng trong các nông, lâm trường sẽ do các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm và Bộ Lâm nghiệp quy định riêng sau khi thống nhất với Bộ Xây dựng.
2. Các công trình tổ chức đấu thầu phải chấp hành nghiêm chỉnh quy chế đấu thầu của Nhà nước, trong đó nhất thiết phải đảm bảo các điều kiện cơ bản sau đây:
a) Bảo đảm đủ vốn để thanh toán theo hợp đồng. Nếu công trình đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước thì phải được ghi vào kế hạch xây dựng cơ bản hàng năm của Nhà nước và được cơ quan tài chính và ngân hàng xác nhận tiến độ cấp vốn hoặc cho vay.
Nếu công trình thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản của đơn vị hoặc vốn tín dụng đầu tư thì phải có xác nhận của ngân hàng về số vốn hiện có của đơn vị và khả năng cho vay vốn của ngân hàng.
b) Có đủ hồ sơ thiết kế dự toán được duyệt, có mặt bằng xây dựng đã được giải phóng và bảo đảm các thủ tục xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
c) Phải đăng ký với cơ quan quản lý xây dựng cơ bản của ngành hoặc địa phương và thông qua danh sách của Hội đồng xét thầu. Chỉ sau khi dược cơ quan quản lý Xây dựng cơ bản chấp thuận bằng văn bản thì chủ đầu tư mới được tổ chức đấu thầu.
d) Giá đấu thầu (mời thầu) được xác định trên cơ sở các định mức, đơn giá xây dựng cơ bản của các cơ quan có thẩm quyền ban hành theo đúng nguyên tắc, phương pháp xác định giá hiện hành và phải được chủ quản đầu tư xét duyệt.
3. Đối với các công trình thuộc sở hữu Nhà nước nếu không đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết để tổ chức đấu thầu đã nêu trên thì không được tổ chức đấu thầu mà phải thực hiện giao thầu theo cách sau:
- Chủ quản đầu tư hoặc chủ đầu tư thông báo vào đầu năm hoặc quý cho Bộ (hoặc Sở) quản lý chuyên ngành xây dựng các công trình của mình cần giao thầu thuộc chuyên ngành đó.
- Bộ (hoặc Sở) quản lý chuyên ngành xây dựng giới thiệu các đơn vị đủ tiêu chuẩn đáp ứng các yêu cầu của từng công trình để chủ đầu tư lựa chọn và đề nghị chủ quản đầu tư quyết định đơn vị nhận thầu.
- Riêng đối với những công trình quan trọng của Nhà nước có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, thời gian xây dựng dài, Nhà nước chỉ định tổ chức tổng thầu theo quy định của Điều lệ.
4. Chủ đầu tư và các đơn vị nhận thầu phải tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế theo quy định của Nhà nước.
Chủ quản đầu tư chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc ký kết và thực hiện các hợp đồng giao nhận thầu của các đơn vị trực thuộc.
Các cơ quan cấp vốn và thanh toán có quyền kiểm tra Hợp đồng giao, nhận thầu. Nếu phát hiện thấy sai sót, tiêu cực, không đúng qui định của Nhà nước thì được quyền tạm ngừng việc cấp vốn và yêu cầu chủ quản đầu tư xem xét, xử lý.
5. Việc giao, nhận thầu các công trình của nước ngoài được phép xây dựng tại Việt Nam và các công trình đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài thực hiện theo qui định của Bộ Xây dựng.
VI. QUẢN LÝ VỐN
1. Nghiệm thu:
- Việc kiểm tra, giám sát chất lượng, nghiệm thu, bàn giao giữa chủ đầu tư và các tổ chức nhận thầu xây lắp phải làm ngay từ đầu, trong từng khâu công việc chủ yếu, từng bộ phận từng hạng mục công trình theo qui định của Nhà nước. Trường hợp cần thiết chủ đầu tư có thể thuê các chuyên gia, các tổ chức khoa học kỹ thuật có năng lực để thực hiện các công tác trên.
Khi phát hiện thấy sai sót, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật ở khâu nào thì phải xử lý dứt điểm trước khi thực hiện khâu tiếp theo. Mọi chi phí sửa chữa, phá đi làm lại do thiếu sót của tổ chức xây dựng không được tính trong vốn xây dựng công trình. Khi kết thúc xây dựng trong biên bản nghiệm thu bàn giao công trình phải đánh giá đầy đủ chất lượng xây dựng trên các mặt cùng với những tồn tại cần phải được xử ly tiếp.
- Chủ quản đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra, giải quyết và xử lý những vấn đề vướng mắc trong quá trình nghiệm thu các công trình thuộc phạm vi mình quản lý; những công trình quan trọng của Nhà nước do Bộ Xây dựng đảm nhận.
- Công tác quản lý kỹ thuật và chất lượng xây dựng phải theo đúng qui định tại Điều 31 của Điều lệ và hướng dẫn của Bộ Xây dựng.
2. Thanh toán:
Việc thanh toán khối lượng xây dựng giữa chủ đầu tư và các tổ chức nhận thầu được tiến hành tùy theo phương thức đấu thầu hoặc giao thầu, cụ thể là:
- Các công trình tổ chức đầu thầu được thanh toán theo hợp đồng đã ký kết giữa bên giao thầu và bên nhận thầu theo quy chế đầu thầu Nhà nước.
- Các công trình thực hiện phương thức giao thầu được thanh toán theo tiêu chuẩn khối lượng được thanh toán do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nếu đến thời điểm thanh toán mà chủ đầu tư không có vốn để trả thì chủ đầu tư phải trả cho bên nhận thầu khoản tiền lãi suất ngân hàng đối với phần giá trị chậm thanh toán và được bổ sung vào dự toán. Nếu việc thanh toán chậm do Ngân hàng thì Ngân hàng phải trả khoản tiền này.
- Các công trình thuộc sở hữu Nhà nước không phân biệt hình thức xây dựng, nguồn vốn đầu tư, cấp quản lý... trong quá trình sử dụng và khi công trình hoàn thành dựa vào sử dụng chủ đầu tư có trách nhiệm quyết toán theo niên độ và quyết toán công trình với chủ quản đầu tư và cơ quan cấp vốn theo chế độ do Bộ Tài chính qui định.
VII. THANH TRA VÀ KIỂM TRA
1. Các bộ quản lý chuyên ngành xây dựng có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra thường kỳ và đột xuất đối với các công trình xây dựng thuộc phạm vi chuyên ngành, phát hiện kịp thời những thiếu sót trong quản lý ở tất cả các khâu của quá trình xây dựng nhất là trong việc đấu thầu và giao, nhận thầu, khối lượng thực hiện; giá cả, thanh toán để chống tiêu cực, lãng phí thất thoát vốn đầu tư và nâng cao chất lượng xây dựng.
2. Các cơ quan quản lý tổng hợp của Nhà nước cùng với chủ quản đầu tư phối hợp tổ chức thanh tra, kiểm tra trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư và xây dựng. Hàng năm tổ chức phúc tra một số luận chứng kinh tế kỹ thuật, thiết kế dự toán của các Bộ và địa phương đã duyệt, kiểm tra việc ghi kế hoạch, cấp vốn và thanh toán.
3. Tổ chức chặt chẽ việc xét duyệt đăng ký hành nghề kinh doanh xây dựng đi đôi với tăng cường kiểm tra hành nghề khảo sát, thiết kế và xây lắp theo giấy phép được duyệt.
4. Việc kiện toàn tổ chức và lực lượng quản lý xây dựng cơ bản của ngành và địa phương đáp ứng nhiệm vụ quản lý xây dựng cơ bản theo yêu cầu của Điều lệ cần được triển khai xong trong năm 1991. Các văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực quản lý do các ngành, địa phương, ban hành theo thẩm quyền quy định phải được gửi về Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Xây dựng.