QUYẾT ĐỊNH
Về việc ban hành Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010
____________________
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Căn cứ Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006-2010;
Theo đề nghị của Chánh Văn phòng,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010. Toàn văn bản kế hoạch được đăng trên website www.mard.gov.vn, có giá trị như bản chính.
Điều 2. Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ căn cứ Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 theo chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm cụ thể hoá thành các nhiệm vụ cải cách hành chính của đơn vị và tổ chức triển khai thực hiện.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, thành viên Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Bộ chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
P.TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠO CCHC
(Đã ký)
Nguyễn Ngọc Thuật
|
KẾ HOẠCH
Cải cách hành chính 2006-2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 3379 QĐ/BNN-VP ngày 08 /11/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
Kế hoạch CCHC 5 năm 2006-2010 của Bộ được xây dựng trên cơ sở cụ thể hoá các nội dung Chương trình tổng thể, kế hoạch CCHC nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 của Chính phủ; Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006-2010 và Chương trình hành động CCHC giai đoạn 2001 – 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ban hành tại văn bản số 1861/BNN-VP ngày 10/07/2002.
Phần thứ nhất
KHÁI QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CCHC 5 NĂM 2001– 2005
I- NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ, trong những năm vừa qua, công tác cải cách hành chính của Bộ được chú trọng và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần giúp Bộ thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, thể hiện trên các lĩnh vực sau:
1- Cải cách thể chế:
- Công tác pháp chế được chú trọng, Bộ đã thành lập Vụ Pháp chế để chủ trì công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; rà soát và kiểm tra việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành.
Trong 5 năm qua , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (sửa đổi) và 05 Pháp lệnh (Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (sửa đổi), Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật (sửa đổi), Pháp lệnh Giống cây trồng, Pháp lệnh Giống vật nuôi, Pháp lệnh Thú y (sửa đổi); trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 82 văn bản, trong đó: 18 Nghị định, 59 Quyết định và 5 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, Luật Đê điều đang được kỳ họpc lần thứ 10, Quốc hội khoá XI xem xét thông qua.
Những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo ra khuôn khổ pháp lý thuận lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn, giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước bằng pháp luật. Ngoài việc tổ chức xây dựng văn bản, những năm gần đây công tác rà soát, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương đã được tiến hành thuờng xuyên, qua đó phát hiện được những vấn đề sai sót, chưa phù hợp để kiến nghị chấn chỉnh và sửa đổi kịp thời.
- Nhiều thủ tục hành chính đã được rà soát, sửa đổi, bãi bỏ, đơn giản hoá hoặc phân cấp để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các tổ chức, doanh nghiệp và công dân trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, trong đó nhiều loại giấy phép về xuất, nhập khẩu phân bón, giống, nguyên liệu cho chế biến thức ăn chăn nuôi, sản xuất thuốc thú y, bảo vệ thực vật đã được bãi bỏ; nhiều loại giấy phép đã được chuyển thành điều kiện kinh doanh; các loại giấy phép liên quan đến phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi, đê điều, khai thác vận chuyển lâm sản đã được phân cấp cho các địa phương; nhiều thủ tục hành chính, giấy phép đã được cấp qua internet; các thủ tục về thẩm định, phê duyệt dự án đã được đơn giản hoá, thời gian được rút ngắn.
- Tình hình và kết quả thực hiện cơ chế "một cửa"
Cuối năm 2004, Bộ đã có chủ trương áp dụng thí điểm cơ chế "một cửa" tại một số Cục quản lý chuyên ngành. Đến nay, Bộ đã thông qua Đề án và chỉ đạo 7 Cục thực hiện thí điểm cơ chế "một cửa" là Cục Bảo vệ thực vật, Cục Thú y, Cục Trồng trọt, Cục Chăn nuôi, Cục Thuỷ lợi và Cục Quản lý Xây dựng công trình và Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn.
Tuy còn nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng và thực hiện, như địa điểm bố trí bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính, nhiều công chức ở bộ phận "một cửa" chưa được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức cải cách hành chính cũng như các kỹ năng, nghiệp vụ và giao tiếp, nhưng bước đầu việc áp dụng cơ chế “một cửa” đã được khách hàng hoan nghênh; các thủ tục hành chính được đơn giản, đúng pháp luật; quy trình, thời gian giải quyết công việc, các khoản phí, lệ phí được quy định rõ ràng, công khai hoá. Trong quá trình thực hiện, Bộ đã tổ chức việc kiểm tra phát hiện những khiếm khuyết, lệch lạc để bổ sung, khắc phục kịp thời.
2. Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nuớc.
- Đã làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Bộ, xác định cụ thể các lĩnh vực Bộ có chức năng quản lý nhà nước, nhằm phân định về chức năng, nhiệm vụ với các Bộ, ngành khác. Đồng thời, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ cũng đã được làm rõ, khắc phục tình trạng chồng chéo, một việc được giao cho nhiều đơn vị hoặc có việc không biết giao cho đơn vị nào.
Điều chỉnh về tổ chức và làm rõ chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành của các Cục, chức năng tham mưu, tổng hợp của các Vụ; khắc phục dần tình trạng: các Vụ như cấp trên của Cục, các Cục không làm hết chức năng nhiệm vụ được giao, thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Bộ; Bộ bao biện, làm thay nhiệm vụ của các Cục; các đơn vị sự nghiệp làm cả nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp; Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án sắp xếp hệ thống các đơn vị nghiên cứu khoa học theo nguyên tắc: nâng cao tính hiệu quả, phát huy tính chủ động và năng động của các đơn vị, phù hợp với cơ chế đổi mới hoạt động khoa học công nghệ Một số viện, trường đã được thành lập công ty để gắn nghiên cứu khoa học với chuyển giao kết quả nghiên cứu vào SX, bước đầu đã đem lại hiệu quả tốt.
Bộ ra quyết định thành lập Ban đổi mới và quản lý doanh nghiệp nông nghiệp trực thuộc Bộ nhằm đẩy mạnh hơn nữa tiến độ sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, nông, lâm trường quốc doanh.
- Việc phân cấp quản lý:
Phân cấp Trung ương-địa phương: Nhiệm vụ quản lý nhà nước về nông nghiệp và PTNT đã được phân cấp khá mạnh cho chính quyền cấp tỉnh, được quy định trong Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; các Pháp lệnh: Thú y; Bảo vệ và KD thực vật; Giống cây trồng; Giống vật nuôi; Đê điều; Phòng, chống lụt, bão; Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi; Nghị định của Chính phủ ban hành quy chế quản lý rừng sản xuất, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên,...Thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về phân cấp giữa Trung ương và Địa phương, Bộ đã chủ động làm việc với Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Công nghiệp, Bộ Tài nguyên môi trường... tiếp tục rà soát chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ theo Nghị định 86/CP nhằm phát hiện những vấn đề còn bất cập để có điều chỉnh và hướng dẫn kịp thời.
Việc phân cấp quản lý và giải quyết công việc cho các Cục, Vụ thông qua hình thức ký thừa lệnh, thừa uỷ quyền Bộ trưởng đã giúp cho công tác quản lý nhà nuớc được kịp thời, đơn giản hoá các thủ tục, nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng các Cục, Vụ, giúp Lãnh đạo Bộ giảm bớt thời gian xử lý những công việc sự vụ để tập trung cho những vấn đề lớn của ngành như hoạch định chủ trương, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển.
3. Về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức.
Vấn đề xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đã được Bộ và các đơn vị thuộc Bộ hết sức quan tâm trên nhiều lĩnh vực, từ việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ; sắp xếp, bố trí cán bộ đúng nguời, đúng việc, tinh giảm biên chế, tổ chức thi tuyển bổ sung cán bộ mới, thực hiện chính sách hưu trí; thực hiện nghiêm túc các quy định, quy trình về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ; đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công chức...Chính vì vậy, phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức của Bộ đã được nâng cao một bước, đáp ứng được yêu cầu công tác
Về quản lý danh mục các ngạch công chức, viên chức. Bộ NN-PTNT hiện đang quản lý 34 ngạch, trong đó có 14 ngạch công chức, 20 ngạch viên chức. Đã chuyển về khối doanh nghiệp 4 ngạch viên chức khử trùng.
4- Về cải cách tài chính công
Bộ Nông nghiệp - PTNT là 1 trong 4 Bộ được chọn thử nghiệm xây dựng Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF). Đây là phương thức tiếp cận ngành mới để thay đổi hệ thống quản lý ngân sách theo định hướng kết quả đầu ra, cũng là một cơ hội quí báu để thử nghiệm, khuyến khích giám sát và định hướng nhiều hơn vào kết quả thực hiện. MTEF 2006-2008 đã hoàn thành và Tổ công tác đang tiếp tục xây dựng MTEF 2007-2009.
Thực hiện cơ chế tài chính mới đối với các đơn vị sự nghiệp có thu:
Hết năm 2005, đã có 88/95 đơn vị thực hiện theo cơ chế tự chủ tài chính mới, trong đó có 6 đơn vị thực hiện tự đảm bảo 100% kinh phí hoạt động. Với cơ chế tài chính này, các Trường, Viện nghiên cứu, Trung tâm đã chủ động mở rộng các hoạt động sự nghiệp như đào tạo ngắn hạn, không chính quy, liên kết đào tạo, triển khai các hợp đồng nghiên cứu khoa học với các đơn vị trong và ngoài nước; các bệnh viện và trung tâm y tế cũng đang cố gắng tổ chức các dịch vụ và chương trình khám chữa bệnh mới.
Đồng thời với việc khai thác các nguồn thu, các đơn vị đã áp dụng các giải pháp để tiết kịêm chi như: xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ, xây dựng các định mức chi phí, định mức tiêu hao vật tư, xăng dầu, dịch vụ công cộng; tăng cường công tác quản lí và giám sát, do đó nguồn thu của từng đơn vị đã được cải thiện đáng kể.
Từ nguồn tiết kiệm chi thường xuyên, khoảng 3% đến 10% và số thu tăng thêm từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đã tạo điều kiện thực hiện cải cách tiền lương, dành một phần để bổ sung kinh phí cho hoạt động chung, cải thiện thu nhập cho người lao động, qua đó tạo được bầu không khí đoàn kết, phấn khởi trong các đơn vị, nâng cao hiệu quả và chất lượng công việc chuyên môn[4].
5. Về hiện đại hoá nền hành chính.
Bằng việc ban hành các quy chế làm việc; duy trì công tác chỉ đạo điều hành theo chương trình công tác, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính..., công tác quản lý hành chính nhà nuớc của Bộ đã có những tiến bộ rõ rệt, giúp cho công tác chỉ đạo điều hành và giải quyết công việc của Bộ và các đơn vị được kịp thời, hiệu quả.
Bộ đã triển khai thí điểm việc “Ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001-2000) vào hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước” tại Văn phòng Bộ từ cuối năm 2003, được cấp chứng chỉ và thực hiện chính thức từ tháng 1/2006. Kết quả thực hiện thí điểm tại Văn phòng Bộ sẽ là cơ sở để triển khai thựuc hiện tại các cơ quan hành chính khác thuộc Bộ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước
Thực hiện chương trình Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước theo Quyết định 112/2001/QĐ-TTg ngày 25 tháng 7 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý hành chính nhà nước của Bộ giai đoạn 2001-2010; phê duyệt Đề án Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005.
Công tác ứng dụng CNTT trong quản lý đã giúp cải tiến phương thức quản lý của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, tiết kiệm chi phí thông qua việc khai thác, sử dụng mạng nội bộ, việc trao đổi thông tin hai chiều qua mạng máy tính giữa Bộ với các cơ sở, địa phương được tăng cường; triển khai thực hiện chương trình quản lý nhân sự PMIS, chương trình quản lý văn bản đến, văn bản phát hành của Bộ.
Hiện đại hóa công sở
Bộ đã sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí được cấp hàng năm để từng bước hiện đại hoá trang, thiết bị, nâng cấp công sở, cải thiện điều kiện làm việc; đến nay, trụ sở cơ quan Bộ ngày càng khang trang, sạch đẹp, ngăn nắp.
Thực hiện phong trào xây dựng đời sống văn hóa công sở, Bộ đã thành lập Ban chỉ đạo các cấp, tổ chức tuyên truyền vận động và phát động phong trào thi đua đến từng cán bộ, công chức, người lao động.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Cải cách thể chế:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa đồng bộ và hoàn chỉnh; kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thường không hoàn thành; số văn bản phát sinh ngoài kế hoạch rất cao.
- Chất lượng soạn thảo, thẩm định văn bản còn hạn chế, một số văn bản còn có sai sót cả về nội dung lẫn hình thức; công tác kiểm tra thực hiện pháp luật chưa được coi trọng và chưa được tiến hành thường xuyên.
- Các đơn vị chưa quan tâm và đầu tư cho công tác pháp chế đúng mức, vì vậy chưa bố trí kịp thời về nhân lực, tài chính phục vụ công tác pháp chế. Trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức pháp chế Cục chưa được xác định rõ.
- Mặc dù đã có chuyển biến bước đầu, song nhìn chung, kỷ luật, kỷ cương hành chính, ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao như: việc tiếp nhận, giải quyết công việc của công dân, tổ chức, doanh nghiệp; trả lời văn bản; triển khai các nhiệm vụ do Lãnh đạo Bộ giao; triển khai các chương trình công tác chung của Bộ; chế độ thông tin, báo cáo… của nhiều đơn vị, một bộ phận lớn cán bộ công chức, kể cả lãnh đạo đơn vị còn yêú; thủ tục hành chính chậm được rà soát, cải tiến, công khai hoá.
2. Tổ chức bộ máy:
Một số chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nuớc về phát triển nông thôn, công nghiệp chế biến, tiêu thụ nông lâm sản; ngành nghề nông thôn giữa Bộ NN-PTNT với các Bộ ngành khác; giữa Sở NN-PTNT với các Sở ngành khác ở cấp tỉnh vẫn còn nhiều nội dung cần tiếp tục được làm rõ.
Việc phân cấp, nhất là phân cấp quản lý giữa Bộ với địa phương còn nhiều khó khăn, đặc biệt là nhiệm vụ quản lý nhà nuớc trên địa bàn chưa rõ ràng như quản lý quy hoạch, quản lý chất lượng vật tư, giống cây trồng, vật nuôi, quản lý dự án đầu tư XDCB. Hệ thống tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước từ Bộ đến cơ sở chưa thống nhất giữa các địa phương, nhất là trong tổ chức bộ máy của các Sở nông nghiệp và PTNT; ở cấp xã chưa có cán bộ, công chức chuyên ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
3. Phát triển nguồn nhân lực
- Về công tác quản lý cán bộ
Chưa tạo một bước chuyển đột phá trong việc chỉnh đốn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy hành chính gắn với việc ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ công chức vẫn là vấn đề hết sức bức xúc; việc nhận xét, đánh giá cán bộ, viên chức còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có khung tiêu chuẩn để đánh giá, chưa đánh giá định kỳ hàng năm một cách hiệu quả và sát thực;
Hầu hết các đơn vị thuộc Bộ vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức hạn chế về năng lực, trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, ít chịu học tập rèn luyện, bảo thủ, trì trệ, có tư tưởng muốn níu kéo phương thức làm việc cũ nên không đáp ứng được với yêu cầu đổi mới, hội nhập. Tuy nhiên, việc giải quyết chế độ chính sách để tinh giảm số cán bộ này rất khó khăn;
- Về công tác đào tạo:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chưa thực sự gắn với chức danh, tiêu chuẩn cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ; nặng về cử đi học trường lớp, chưa chú trọng đào tạo rèn luyện cán bộ qua thực tế, nội dung chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học chưa phù hợp với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ mới. Còn nhiều cán bộ quản lý công chức hành chính chưa được trang bị kỹ năng lãnh đạo và kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ;
4- Về cải cách tài chính công
Lĩnh vực lập, phân bổ dự toán ngân sách nhà nước
- Cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch chưa được thực hiện đầy đủ; trách nhiệm giải trình chưa theo kịp với việc phân cấp mạnh hơn về đầu tư và về quản lý chi tiêu; chưa xây dựng được qui trình hoàn chỉnh và tiêu chí lập và phân bổ dự toán; các chỉ tiêu cũng như hệ thống biểu mẫu chưa chuẩn hóa thống nhất để tất cả các đơn vị áp dụng; hệ thống quản lý ngân sách chưa định hướng theo kết quả đầu ra, chưa tích hợp thông tin quản lý kết quả thực hiện vào quy trình lập kế hoạch và quy trình ngân sách.
Về thực hiện cơ chế tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước
- Định mức chi hành chính thấp nên khó thực hiện thí điểm cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; chưa chuẩn hoá xây dựng quy chế sử dụng kinh phí nội bộ, quy chế tăng thu nhập cho cán bộ, công chức
Về thực hiện cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp nhà nước
Các đơn vị vẫn còn bị hạn chế đối với kiểm soát phân bổ thu chi; thay đổi mức độ, phạm vi và định hướng các dịch vụ công; phân loại, giao quyền tự chủ tài chính còn chưa đồng đều giữa các lĩnh vực.
- Giám sát tài chính vẫn theo cơ chế tập trung, bao cấp, can thiệp quá cụ thể, chi tiết vào nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các đơn vị sự nghiệp công. Các đơn vị vừa thụ động, vừa ỷ lại và nhiều trường hợp không trung thực trong kế toán, chứng từ.
Đánh giá chung:
Trong những năm vừa qua, công tác CCHC của Bộ đã đạt được một số kết quả quan trọng, đặc biệt trên các lĩnh vực xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra việc thực hiện pháp luật; điều chỉnh một bước quan trọng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các Cục, Vụ; sắp xếp hệ thống Viện nghiên cứu; sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; buớc đầu rà soát, công khai thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực, một số đơn vị nhằm giải quyết nhanh, thuận lợi các công việc liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp; kỷ cuơng, kỷ luật hành chính, ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức trong thực thi công vụ bước đầu được nâng cao; thời gian giải quyết công việc, trả lời các văn bản của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân được rút ngắn; công sở bước đầu được sắp xếp lại.
Tuy nhiên, trước yêu cầu về hiện đại hoá nền hành chính, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nông dân, doanh nghiệp trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, công tác quản lý hành chính nhà nước của Bộ vân còn những vấn đề tồn tại cần tập trung giải quyết, đó là: hệ thống văn bản QPPL về lĩnh vực nông nghiệp và PTNTcòn thiếu; một số văn bản chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn tới sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Việc giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp, tổ chức ở nhiều cơ quan vẫn còn chậm, kéo dài, thậm chí không trả lời; ý thức trách nhiệm của một bộ phân cán bộ công chức còn yếu, có biểu hiện sách nhiễu trong thực thi công vụ, thờ ơ trước những bức xúc của ngưòi dân, doanh nghiệp. Hệ thống quản lý ngành từ Bộ đến cơ sở chưa thống nhất và còn bất cập; các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ rất lớn nên Bộ, các Cục, Vụ mất nhiều thời gian, công sức cho việc quản lý trực tiếp, xử lý những vụ việc cụ thể, ảnh hưởng đến nhiệm vụ quản lý vĩ mô chung của Bộ. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và phần lớn cán bộ, công chức ít quan tâm đến công tác CCHC trong khi các điều kiện về tài chính, đào tạo, bồi dưỡng, động viên, khen thưởng đối với cán bộ làm công tác CCHC hầu như không có, chính vì vậy, CCHC chưa được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Xây dựng Bộ NN&PTNT hiện đại, đảm bảo sự quản lý, điều hành thông suốt, công khai, minh bạch, dân chủ, hiệu quả, thân thiện, tiến tới phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của nông dân, doanh nghiệp, tổ chức về những vấn đề thuộc phạm vị quản lý nhà nước của Bộ, góp phần vào sự phát triển ổn định, bền vững của khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỤ THỂ.
A. CẢI CÁCH THỂ CHẾ
1. Mục tiêu
Xây dựng hệ thống pháp luật về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoàn thiện theo hướng đơn giản, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, phù hợp với các quy định quốc tế, đồng thời giúp Bộ thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, góp phần ngăn chặn tham nhũmg, lãng phí.
2. Nhiệm vụ cụ thể
- Đổi mới quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Rà soát, sửa đổi theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai các thủ tục hành chính, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của ,người dân, doanh nghiệp, tổ chức;
- Bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp lý, kỹ năng hành chính và đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức của Bộ.
- Kiểm tra việc thực hiện các văn bản QPPL; thực hiện trợ giúp pháp lý
B. CẢI CÁCH TỔ CHỨC BỘ MÁY
1. Mục tiêu
Xây dựng được hệ thống tổ chức quản lý ngành NN & PTNT thống nhất, thông suốt từ trung ương đến cơ sở
2. Nhiệm vụ cụ thể
- Thực hiện phân cấp để làm rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa Bộ với các Cục; giữa Bộ với cấp tỉnh; giữa Cục với Vụ trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn;
- Xây dựng chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ nhiệm kỳ Chính phủ mới (Quốc hội khoá XII);
- Giao quyền tự chủ cho các đơn vị dịch vụ công và đơn vị sự nghiệp KHCN thuộc Bộ theo các quy định của Chính phủ.
- Quy hoạch, sắp xếp hệ thống Trường thuộc Bộ giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015;
- Tiếp tục triển khai bước 2 sắp xếp các Viện nghiên cứu khoa học theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng thí điểm một số mô hình mới về quản lý hành chính và dịch vụ công: mô hình quản lý dựa trên kết quả (PMS), mô hình cung cấp kiến thức pháp luật, khuyến nông và dịch vụ công;
C. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1. Mục tiêu
Chuẩn hoá các yêu cầu, tiêu chuẩn đối với từng chức danh cán bộ, công chức
2. Nhiệm vụ
- Ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý nguồn nhân lực chung của Bộ; xây dựng bản mô tả nhiệm vụ công chức; đổi mới công tác tuyển dụng, điều động, bổ nhiệm cán bộ công chức;
- Tăng cường phân cấp quản lý cán bộ công chức giữa Bộ với các đơn vị trực thuộc, nhất là việc tuyển dụng, nâng bậc lương; quản lý đi công tác, học tập ở nước ngoài;
- Nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức của cán bộ công chức hành chính trong thực thi công vụ
- Xây dựng và thực hiện quy chế công vụ, xác định quyền hạn, trách nhiệm, chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với CBCC trong thực thi công vụ.
- Xem xét, sửa đổi và hoàn thiện chương trình bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước cho CBCC trong ngành theo quyết định 13/2006/QĐ-BNV, ngày 6/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
D- CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
1. Mục tiêu
Cải tiến việc dự toán, phân bổ, cân đối ngân sách nhà nước và quản lý chi tiêu để tạo sự chủ động, tăng cường trách nhiệm cho các đơn vị và tăng cường trách nhiệm của các đơn vị, đảm bảo minh bạch và hiệu quả trong việc chi tiêu ngân sách.
2. Nhiệm vụ
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về tài chính (chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu tư) đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, áp dung cơ chế tài chính mới của Chính phủ đối với các cơ quan hành chính nhà nước; đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khoa học công lập thuộc Bộ;
- Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình hành động thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng.
E. HIỆN ĐẠI HOÁ NỀN HÀNH CHÍNH
1. Mục tiêu
Xây dựng bộ máy hành chính của Bộ Nông nghiệp-PTNT từng bước được hiện đại, chuyên nghiệp, minh bạch và thân thiện với người dân, doanh nghiệp.
2. Nhiệm vụ
- Thực hiện chương trình hoá công tác, quy chế hoá công vụ trong chỉ đạo điều hành của Bộ và các đơn vị;
- Từng bước hiện đại hoá công sở cơ quan Bộ và các đơn vị, trước mắt trang bị phương tiện làm việc theo tiêu chuẩn của Chính phủ về hiện đại hoá nền hành chính;
- Xây dựng một phòng “một cửa” của Bô NN&PTNT sử dụng chung cho các đơn vị tại số 2 Ngọc Hà, đảm bảo tiêu chuẩn hành chính hiện đại , văn hoá công vụ để tiếp nhận và trả kết quả giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp;
- Phát triển hệ thống thông tin quản lý của Bộ NN&PTNT đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành của Bộ và các đơn vị, lưu trữ, chia sẻ thông tin theo mục tiêu chính phủ điện tử;
- Xây dựng thí điểm và mở rộng hệ thống Trung tâm thông tin cấp xã, hệ thống thông tin khuyến nông và thị trường để thực hiện cung cấp, trao đổi thông tin 2 chiều giữa nông dân và các cấp quản lý hành chính.
F. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO CCHC
1. Mục tiêu
Đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, có hiệu quả của Ban chỉ đạo CCHC của Bộ, của Thủ trưởng các đơn vị đối với hoạt động CCHC, tập trung các nguồn lực để thực hiện CCHC.
2. Nhiệm vụ
- Xác định rõ và thực hiện đầy đủ vai trò, trách nhiệm của từng thành viên Ban Chỉ đạo, Văn phòng Thường trực Cải cách hành chính; các nội dung hoạt động cải cách hành chính của Bộ được đánh giá kịp thời, có hiệu quả;
- Nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trong việc tổ chức triển khai chương trình CCHC của Bộ, của đơn vị có chất lượng, hiệu quả;
- Tăng cường và tập các nguồn lực tài chính phục vụ chương trình CCHC, bao gồm ngân sách nhà nước và hỗ trợ quốc tế;
- Đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức các hoạt động CCHC của Bộ và các đơn vị;
- Trang bị các kiến thức và kinh nghiệm trong nước và ngoài nước về CCHC cho đội ngũ công chức thực hiện công tác CCHC.
III- CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:
1. Các cấp uỷ Đảng trong các cơ quan đơn vị thuộc Bộ trực tiếp lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng quán triệt mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chương trình CCHC của Chính phủ và của Bộ trong cơ quan đơn vị mình và lãnh đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính.
2.Các thành viên Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Bộ căn cứ vào nhiệm vụ được phân công chủ động chỉ đạo xây dựng kế hoạch chi tiết từng năm, từng quý để triển khai các nhiệm vụ CCHC giai đoạn 2006-2010 của Bộ; thường xuyên giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và báo cáo kịp thời với Trưởng Ban chỉ đạo.
3. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị là người chịu trách nhiệm trực tiếp đối với chất lượng hoạt động cải cách hành chính của cơ quan, đơn vị mình. Căn cứ nội dung kế hoạch cải cách hành chính 2006-2010 của Bộ chủ động xây dựng kế hoạch, cụ thể hoá thành các nhiệm vụ CCHC của cơ quan, đơn vị và tổ chức triển khai theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác cải cách hành chính về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, động viên, khen thưởng trong công tác.
4. Vụ Tài chính căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tài chính và các chế độ tài chính hiện hành có trách nhiệm hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch tài chính để thực hiện các nhiệm vụ CCHC của các đơn vị và của Bộ .
5. Vụ Hợp tác quốc tế có trách nhiệm tìm các nguồn tài trợ quốc tế hỗ trợ việc triển khai kế hoạch cải cách hành chính của Bộ; theo dõi, đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ; thường xuyên báo cáo Ban chỉ đạo.
6. Văn phòng thường trực cải cách hành chính giúp Ban chỉ đạo hướng dẫn, hỗ trợ, theo dõi, tổng hợp việc tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách hành chính của Bộ; đề xuất kịp thời với BCĐ xử lý những vấn đề phát sinh, khen thưởng kịp thời, chính xác những đơn vị, cá nhân có thành tích, phê bình, kỷ luật những đơn vị, cá nhân thực hiện không nghiêm túc công tác cải cách hành chính.
Bản kế hoạch này có 2 phụ lục kèm theo để làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai thực hiện./.