THÔNG TƯ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Hướng dẫn thi hành chỉ thị 330/CT
ngày 13/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường quản lý ngoại hối
Ngày 13-9-1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị 330-CT về việc tăng cường quản lý ngoại hối, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc thực hiện như sau:
1. Các tổ chức xuất nhập khẩu và dịch vụ phải chuyển toàn bộ số ngoại tệ thu được do xuất khẩu hàng hoá hay dịch vụ về nước vào các tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam uỷ quyền cho phép hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh, Sài gòn công thương Ngân hàng... (dưới đây gọi chung là Ngân hàng được uỷ quyền).
Các tổ chức kinh tế kinh doanh hàng hoá và làm dịch vụ ở trong nước được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép trực tiếp thu ngoại tệ, hàng ngày phải nộp số ngoại tệ thu được vào tài khoản tiền gửi tại các Ngân hàng phục vụ mình.
Các Ngân hàng được uỷ quyền phải đảm bảo chi trả và thanh toán kịp thời theo yêu cầu của chủ tài khoản trong phạm vi số dư trên tài khoản của họ; mọi sự chậm trễ gây thiệt hại đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của chủ tài khoản thì Ngân hàng được uỷ quyền phải chịu phạt theo các quy định hiện hành.
Chủ tài khoản được sử dụng ngoại tệ trên tài khoản của mình để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, trả nợ tiền vay, chi trả dịch vụ và các khoản kinh phí cho cán bộ đi nước ngoài cũng như cơ quan đại diện của mình ở nước ngoài trong khuôn khổ quy định quản lý ngoại hối của Nhà nước và chế độ chi tiêu ngoại tệ do Bộ Tài chính quy định, hoặc bán cho Ngân hàng.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức xuất nhập khẩu, dịch vụ và cá nhân có ngoại tệ nếu chưa có nhu cầu sử dụng vào sản xuất, kinh doanh, hoặc không muốn gửi vào tài khoản tại Ngân hàng thì bán cho các ngân hàng được uỷ quyền theo hình thức mua bán trả tiền ngay hoặc mua bán có kỳ hạn.
Mọi việc thanh toán, mua bán, chuyển nhượng bằng ngoại tệ giữa các tổ chức hoặc cá nhân với nhau đều phải thực hiện thông qua các Ngân hàng đựơc uỷ quyền.
Các tổ chức và cá nhân không được mua bán ngoại tệ dưới bất cứ hình thức nào ngoài các Ngân hàng được uỷ quyền.
2. Các tổ chức có ngoại tệ không được mở tài khoản và gửi ngoại tệ ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, trừ trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Trung ương cho phép.
a) Những tổ chức (kể cả các Ngân hàng được uỷ quyền) đã được Ngân hàng Nhà nước Trung ương cho phép mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài phải báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản lý ngoại hối) tình hình các tài khoản hiện đang gửi ở nước ngoài với những chi tiết sau đây: Số hiệu tài khoản, Ngân hàng mở tài khoản, doanh số hoạt động (Nợ, Có) trong 10 tháng qua và số dư có trên tài khoản đến cuối ngày 31-10-1990.
Từ tháng 11-1990 trở lại, hàng tháng báo cáo tình hình hoạt động của các tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định đính kèm theo Thông tư này (Phụ lục số 1).
b) Những tổ chức hiện đang có tài khoản ngoại tệ ở Ngân hàng nước ngoài hoặc gửi ngoại tệ ở nước ngoài mà chưa được Ngân hàng Nhà Nước Trung ương cho phép đều phải báo cáo trước ngày 15-11-1990 cho Thủ trưởng Bộ, Ngành chủ quản đồng gửi Ngân hàng Nhà nước Trung ương về số dư tài khoản ngoại tệ và số ngoại tệ để ở nước ngoài đến cuối tháng 10-1990. Đồng thời làm đơn gửi Ngân hàng Trung ương xin được mở tài khoản Ngoại tệ ở nước ngoài. Trong đơn cần nói rõ lý do và sự cần thiết phải mở tài khoản ở nước ngoài và phải được Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp quản lý xem xét đề nghị.
Những tổ chức xin mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương xét không đủ điều kiện cấp giấy phép Kèm theo Thông tư này (phụ lục số 2) thì phải tất toán tài khoản và chuyển hết số ngoại tệ đó về nước trước ngày 15-11-1990.
3. Đối với số ngoại tệ của cá nhân là công dân nước ngoài, Việt kiều và công dân Việt Nam được áp dụng theo Thông tư số 33/NH-TT ngày 15-3-1989 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Điều lệ quản lý ngoại hối (Nghị định 161-HĐBT 18-10-1988).
4. Các tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam phải chuyển đủ phần góp vốn bằng ngoại tệ vào Việt Nam theo cam kết và phải gửi vào tài khoản ngoại tệ mở tại các Ngân hàng được uỷ quyền.
Trong tháng 10 và tháng 11 năm 1990, các Ngân hàng được uỷ quyền quản lý các tài khoản của các tổ chức, cá nhân đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, Xí nghiệp liên doanh, Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài... căn cứ vào giấy phép do Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cấp và hồ sơ có liên quan để kiểm tra lại việc góp vốn bằng ngoại tệ của bên nước ngoài và báo cáo kết quả về Ngân hàng Nhà nước Trung ương (danh sách các tổ chức được Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu tư cấp giấy phép sẽ được thông báo cho các Ngân hàng).
5. Tất cả các tổ chức bán hàng, làm dịch vụ thu ngoại tệ và dịch vụ kiều hối tại Việt Nam đã có giấy phép của các Ngân hàng hay của cơ quan nào khác cấp trước đây hoặc chưa có giấy phép đều phải làm lại thủ tục để xin Ngân hàng Nhà nước Trung ương cấp giấy phép. Kể từ ngày 15-11-1990, các giấy phép không phải do Ngân hàng Nhà nước Trung ương cấp đều không có giá trị để hoạt động thu ngoại tệ.
Ngân hàng Nhà nước Trung ương sẽ cấp giấy phép cho các tổ chức hoạt động thu ngoại tệ đối với những trường hợp sau đây:
a) Các tổ chức bán hàng và làm dịch vụ thu ngoại tệ:
Các cửa hàng bán miễn thuế cho người nước ngoài (duty free Shop) tại các sân bay và hải cảng quốc tế;
Các tổ chức làm dịch vụ thu ngoại tệ như hàng không quốc tế, hàng hải quốc tế, bưu điện quốc tế, cung ứng tàu biển và một số dịch vụ thu ngoại tệ khác ở trong và ngoài nước;
Một vài điểm bán hàng thu ngoại tệ.
Những tổ chức, đơn vị trên đây đều phải làm đơn nói rõ loại hình hoạt động thu ngoại tệ là bán hàng hoá hay làm dịch vụ gì ? Doanh số thu ngoại tệ trong 3 năm gần đây, tỷ lệ hàng nhập khẩu so với hàng xuất khẩu tại chỗ, hiệu quả kinh doanh, hướng phát triển sắp tới...
Đơn phải có nhận xét và đề nghị của thủ trưởng Bộ, Ngành chủ quản hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu và ý kiến của Giám đốc Ngân hàng được uỷ quyền hoặc Ngân hàng Nhà nước (nơi không có Ngân hàng uỷ quyền) trên địa bàn.
Thời gian Ngân hàng Nhà nước Trung ương nhận đơn chậm nhất là ngày 5-11-1990 (mẫu đơn xin cấp giấy phép xem phụ lục số 3).
Tổ chức nào không đủ điều kiện để cấp giấy phép, Ngân hàng Nhà nước Trung ương sẽ thông báo ngay để tổ chức đó đình chỉ hoạt động thu ngoại tệ và chuyển sang phương thức bán hàng hoá và làm dịch vụ thu bằng tiền Việt Nam.
b) Các tổ chức làm dịch vụ kiều hối:
Việc huy động và chi trả kiều hối do các Ngân hàng được uỷ quyền đảm nhận. Các tổ chức khác ở trong và ngoài nước có thể làm đại lý cho Ngân hàng được uỷ quyền về việc huy động và chi trả kiều hối.
Các Ngân hàng được uỷ quyền có thể tự huy động và chi trả kiều hối hoặc liên doanh với các tổ chức ngoài nước và tổ chức trong nước để huy động và chi trả kiều hối.
Cơ quan Trung ương của Ngân hàng được uỷ quyền phải báo cáo về Ngân hàng Nhà nước Trung ương danh sách những tổ chức ngoài Ngân hàng liên doanh với mình để huy động và chi trả kiều hối (kèm theo hợp đồng liên doanh) và danh sách những tổ chức nhận làm đại lý để huy động hoặc chi trả kiều hối (kèm theo đơn nhận làm đại lý).
Hợp đồng liên doanh và đơn xin làm đại lý chỉ được thực hiện dịch vụ kiều hối khi đã có quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
c) Đối với các bàn thu đổi ngoại tệ:
Các Ngân hàng được uỷ quyền phải mở rộng màng lưới mua bán ngoại tệ, lập các bàn đổi tiền ở những nơi cần thiết như cửa khẩu, sân bay, hải cảng, khách sạn quốc tế, trung tâm đô thị, các cửa hàng lớn...
Ở những nơi mà Ngân hàng dược uỷ quyền chưa bố trí được bàn đổi tiền thì có thể uỷ thác cho đơn vị giao dịch với mình làm nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ. Các ngân hàng được uỷ quyền phải lập danh sách những bàn đổi tiền của các đơn vị được uỷ thác đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản lý ngoại hối).
Các bàn đổi tiền uỷ thác đều phải treo biển của Ngân hàng được uỷ quyền theo mẫu thống nhất; chỉ được mua ngoại tệ vào không được bán ngoại tệ, không được thoái hối và phải chịu sự kiểm tra giám sát hướng dẫn về mọi mặt của Ngân hàng được uỷ quyền.
Đơn vị làm uỷ thác chỉ được đưa vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình tối đa là 50 % số ngoại tệ thu đổi được và sử dụng vào mục đích theo quy định tại điểm 1 của Thông tư này, số ngoại tệ còn lại phải bán cho Ngân hàng được uỷ quyền.
Việc tổ chức bàn đổi tiền phải đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng, an toàn, phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng. Các Ngân hàng được uỷ quyền tuỳ theo khả năng kinh doanh ngoại tệ của mình mà quy định các loại ngoại tệ thu đổi (các loại ngoại tệ mua vào), trang bị phương tiện làm việc cần thiết phục vụ cho việc thu đổi, bố trí cán bộ có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất, thái độ phục vụ tốt làm ở các bàn đổi tiền.
6. Các Ngành, địa phương và các tổ chức của các Bộ, các tỉnh, thành phố có thu chi ngoại tệ đều lập kế hoạch thu chi ngoại tệ theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Trung ương bằng văn bản riêng.
7. Trong khi chờ tổ chức phòng giao dịch thị trường hối đoái để xác định tỷ giá thị trường trong mua bán ngoại tệ thì các ngân hàng được uỷ quyền căn cứ vào tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam với đôla Mỹ và các ngoại tệ khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố để quy định tỷ giá kinh doanh mua bán ngoại tệ trong biên độ cộng trừ năm phần trăm (± 5%) so với tỷ giá chính thức. Tỷ giá bán ngoại tệ không được vượt quá năm phần ngàn (0,5%) so với tỷ giá mua ngoại tệ.
8. Việc nhập khẩu vàng do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận, các tổ chức khác chỉ được nhập vàng khi được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép (Hồ sơ xin nhập vàng xem phụ lục số 4 kèm theo Thông tư này).
Ngân hàng Nhà nước Trung ương là cơ quan cấp giấy phép nhập khẩu vàng (bao gồm nhập vàng kiều hối theo Quyết định 270-CT ngày 20-10-1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
Vàng thỏi của cá nhân mang vào Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước mua hoặc giao cho các Ngân hàng hoặc các Công ty kinh doanh vàng bạc mua theo giá thị trường tại thời điểm mua.
Việc lưu thông vàng thỏi trên thị trường nội địa do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận.
Cấm các tổ chức và cá nhân sử dụng vàng dưới bất kỳ dạng nào để thanh toán, chi trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ qua biên giới và cửa khẩu.
Việc quản lý kinh doanh vàng tư trang của các tổ chức và cá nhân trong nước thực hiện theo Quyết định 139-CT ngày 24-5-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Các tổ chức đã được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép cho nhập khẩu vàng từ đầu năm 1990 đến nay phải báo cáo về Ngân hàng Nhà nước Trung ương (Vụ quản lý ngoại hối) số lượng vàng đã nhập, số lượng vàng đã tiêu thụ và số lượng vàng tồn kho tính đến ngày 31-10-1990. Thời hạn gửi báo cáo chậm nhất về Ngân hàng Nhà nước Trung ương là hết ngày 10-11-1990.
Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, đặc khu có trách nhiệm kiểm tra thường xuyên tình hình tồn kho và hoạt động mua bán vàng của các tổ chức kinh doanh vàng bạc trên địa bàn và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Trung ương (theo mẫu đính kèm phụ lục số 5).
9. Việc huy động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ sẽ có hướng dẫn riêng của Ngân hàng Nhà nước Trung ương.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ký và bãi bỏ những quy định trước đây của Ngân hàng Nhà nước trái với thông tư này.
Để thi hành nghiêm chỉnh chỉ thị 330-CT ngày 13-9-1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường quản lý ngoại hối, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị Thủ trưởng các Bộ, Ngành và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu chỉ đạo các tổ chức, đơn vị, cá nhân trực thuộc thực hiện tốt chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư này.
Các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, đặc khu có trách nhiệm phối kết hợp với các Ngành hữu quan ở địa phương mình tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Thông tư này và kịp thời phản ánh những vấn đề vướng mắc, tồn tại về Ngân hàng Nhà nước Trung ương để giải quyết./.