• Hiệu lực: Hết hiệu lực toàn bộ
  • Ngày có hiệu lực: 27/05/2006
  • Ngày hết hiệu lực: 30/08/2024
UBND TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Số: 1260/2006/QĐ-UBND
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thừa Thiên Huế, ngày 17 tháng 5 năm 2006

UỶ BAN NHÂN DÂN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

__________

     Số: 1260/2006/QĐ-UBND

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

  Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

__________________

Huế, ngày 17  tháng 5 năm 2006

QUYẾT ĐỊNH

V/v ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW

của Bộ Chính trị và Nghị quyết 35-NQ/TU của Thường vụ Tỉnh uỷ về

tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình

_____________

 

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

 

             Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

             Căn cứ Nghị quyết số 47 - NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị, Quyết định 09/2006/QĐ – TTg ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 35-NQ/TU ngày 21/9/2005 của Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;

             Theo đề nghị của Chủ nhiệm Ủy ban DS,GĐ&TE tỉnh tại tờ trình số 27/TTr - UBDSGĐTE ngày 13/01/2006,

 

QUYẾT ĐỊNH:

 

            Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ chính trị, Quyết định 09/2006/QĐ-  TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 35-NQ/TU của Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình.

            Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký.

            Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em tỉnh; Thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành liên quan và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./. 

 

 

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH

 

Ngô Hòa

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

UỶ BAN NHÂN DÂN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

__________

                CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                             Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

_________________

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG

(Ban hành kèm theo Quyết định số:1260/2006/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2006

 của Uỷ ban nhân dân tỉnh)

___________________

                                         

Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1/1993) đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giải quyết cơ bản vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta.

Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và Chiến lược dân số của Quốc gia, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo thực hiện chính sách dân số thông qua nội dung của Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên Huế lần thứ XII, Nghị quyết 3e/2000/NQ-HĐND ngày 27 tháng 7 năm 2000 của HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế; Đề án đẩy mạnh công tác Dân số - KHHGĐ trong giai đoạn mới (2001-2010); Chiến lược DS-KHHGĐ Thừa Thiên Huế đến năm 2010 và Quyết định 3424/2000/QĐ-UB ngày 19/12/2000 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về việc quy định về một số chính sách DS-KHHGĐ đã được triển khai đến cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân từ tỉnh đến cơ sở.

 

PHẦN THỨ NHẤT

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH

Ở THỪA THIÊN HUẾ TRONG THỜI GIAN QUA

I . Thành tựu

Sau hơn 10 năm thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân số- kế hoạch hoá gia đình( DS-KHHGĐ), với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách DS-KHHGĐ đã thực sự đi vào cuộc sống, đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển biến rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con đang được chấp nhận ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số nhanh đã được khống chế.

Công tác DS-KHHGĐ ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua,  nhất là từ khi có Nghị quyết TW 4 (khoá VII), Chiến lược Dân số Việt Nam và Nghị quyết 14/NQ-TVTU của Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ, cùng với sự nỗ lực và quyết tâm cao của các ngành các cấp nên đã đạt những kết quả đáng kể góp phần  giảm tỷ suất sinh  từ 32,2%năm 1993 xuống còn 17,65%o vào năm 2004, tỷ lệ tăng tự nhiên dân số từ 2,59% xuống còn 1,35%, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ trên 4 con xuống còn khoảng 2,5 con, tỷ lệ cặp vợ chồng thực hiện các biện pháp tránh thai tăng từ 44,5% lên 66%.

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng tổ chức bộ máy và quản lý điều hành

 - Công tác DS-KHHGĐ được các cấp uỷ Đảng, chính quyền  quan tâm  chỉ đạo thường xuyên, sâu sát. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo và hệ thống chính sách DS-KHHGĐ của địa phương từng bước được hoàn thiện, tạo động lực đẩy mạnh việc thực hiện công tác DS – KHHGĐ.

- Công tác DS-KHHGĐ từng bước được xã hội hoá, có sự tham gia tích cực của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và sự hưởng ứng của cộng đồng dân cư, nhận thức của cán bộ và nhân dân về công tác dân số ngày càng được nâng lên rõ rệt. Với các chính sách của Đảng, Nhà nước, đã góp phần đẩy mạnh, đưa chương trình đến tận người dân, nâng cao tính tự nguyện, tự giác trong việc chấp nhận qui mô gia đình nhỏ “mỗi cặp vợ chồng có 1-2 con”.

- Tổ chức bộ máy Uỷ ban DS-KHHGĐ tiếp tục được củng cố và hoàn thiện  theo hướng chuyên trách và chuyên nghiệp, được tăng cường về số lượng và chất lượng. Chính sách đối với người thực hiện KHHGĐ và đội ngũ cán bộ làm công tác dân số ngày được quan tâm nhiều hơn.

- Việc thực hiện quản lý chương trình DS-KHHGĐ đã đi vào nề nếp. Ngân sách chi cho công tác này ngày một tăng, việc quản lý, sử dụng kinh phí đúng mục tiêu và có hiệu quả cao.

2. Công tác truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi tiếp tục được đẩy mạnh: Hình thức tuyên truyền đa dạng và phong phú, nội dung luôn được đổi mới và mở rộng. Truyền thông được xác định là nhiệm vụ quan trọng, là giải pháp hàng đầu, nhằm nâng cao nhận thức và hành động của cộng đồng về công tác dân số. Thông qua các hoạt động truyền thông đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hiểu biết về SKSS/KHHGĐ cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, vị thành niên và thanh niên, tạo nhu cầu sử dụng các dịch vụ SKSS/KHHGĐ trên địa bàn toàn tỉnh. Công tác truyền thông được triển khai có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt tập trung ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đông dân có mức sinh cao và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao được các cấp, các ngành và các đoàn thể quan tâm, phối hợp tổ chức và nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã có tác động mạnh mẽ từ nhận thức đến thay đổi hành vi chấp nhận chương trình theo hướng bền vững hơn góp phần tăng tỷ lệ người sử dụng các biện pháp tránh thai, giảm sinh và giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. Nhiều mô hình lồng ghép truyền thông với dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ phát huy hiệu quả góp phần giảm tỷ suất sinh hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra.

3. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản - kế hoạch hoá gia đình đã cơ bản  đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng dân cư theo hướng gần dân, thuận tiện và an toàn: Kết hợp truyền thông với dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ làm tăng nhanh số người sử dụng các biện pháp tránh thai. Dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến vùng khó khăn, vùng đông dân có mức sinh cao và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao được chú trọng. Dịch vụ KHHGĐ, làm mẹ an toàn, phòng chống viêm nhiễm đường sinh sản đã tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng, nhất là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn dễ dàng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản KHHGĐ, nâng cao sức khoẻ cho bà mẹ, trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ, tử vong trẻ em và giảm tỷ lệ phụ nữ bị bệnh phụ khoa...góp phần hoàn thành chỉ tiêu về KHHGĐ, giảm sinh và giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên.

4. Các chương trình dự án khác thuộc chương trình mục tiêu Quốc gia như Dự án tín dụng - phát triển kinh tế gia đình được triển khai có hiệu quả; Nâng cao năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ, thu thập thông tin quản lý chuyên ngành được chú trọng góp phần nâng cao năng lực quản lý điều hành; hoạt động nâng cao chất lượng dân số, đào tạo, nghiên cứu khoa học đang được quan tâm thực hiện.

II. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân

1. Những khó khăn, hạn chế: Với cơ cấu  dân số trẻ, qui mô dân số tiếp tục tăng; tình hình giảm sinh không đồng đều giữa các vùng; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm và hiện đang còn ở mức cao: 27,6% (năm 2004). Phong tục tập quán, tâm lý trọng nam hơn nữ vẫn còn tồn tại; mô hình gia đình 1 đến 2 con chưa được chấp nhận ở một bộ phận dân cư và kể cả một số cán bộ, đảng viên dẫn đến những khó khăn sau:

- Mức sinh giảm chậm và chưa thật sự vững chắc, tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên đang có xu hướng tăng ở một số địa phương, nhất là vùng ven biển đầm phá. Số ca nạo hút thai ở vị thành niên, thanh niên trẻ ngày một tăng. 

- Việc chấp nhận một số biện pháp tránh thai hiệu quả cao ngày càng giảm nhất là biện pháp triệt sản nam.

- Đội ngũ cán bộ dân số, gia đình và trẻ em ở cấp cơ sở thiếu ổn định, chưa được đào tạo cơ bản nên còn nhiều bất cập.

- Việc thực hiện chính sách dân số nhất là việc xử lý người vi phạm sinh con thứ 3 trở lên chưa nghiêm, thiếu thống nhất. Cán bộ, đảng viên còn vi phạm, chưa làm gương cho nhân dân, trong khi mức xử lý chưa cao, có nơi xử lý chiếu lệ. Việc đưa Chính sách dân số vào hương ước, qui ước đôi khi còn mang tính hình thức, một số làng được công nhận làng văn hoá nhưng tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn tăng.

- Sự tham gia của các ban ngành cấp cơ sở trong công tác truyền thông còn nhiều lúng túng, bị động. Công tác truyền thông và cung cấp dich vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản chưa đến được với nhân dân ở vùng khó khăn một cách thường xuyên.

- Một bộ phận cán bộ và nhân dân hiểu chưa đúng tinh thần Pháp lệnh Dân số, nảy sinh suy nghĩ sai lệch về sinh con thứ 3 trở lên.

- Ngân sách hàng năm có tăng nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiệm vụ mới.

2. Nguyên nhân

- Sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác DS-KHHGĐ ở một số địa phương chưa đúng mức, nhiều nơi do thoả mãn với những thành tựu ban đầu nên sớm buông lỏng quản lý, chưa thật sự xem chương trình DS-KHHGĐ là một trong những vấn đề quốc sách để có chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động lâu dài.

- Nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan trọng của công tác DS-KHHGĐ chưa được coi trọng, xem công tác này như là hoạt động phong trào, chưa thấy hết tác động sâu xa của vấn đề dân số với quốc kế dân sinh.

 - Tư tưởng muốn có đông con và phải có con trai còn ảnh hưởng trong một bộ phận nhân dân ở nông thôn ven biển, đầm phá và thậm chí trong một số cán bộ công nhân viên chức.

- Chính sách thực hiện công tác DS-KHHGĐ chưa đủ mạnh và thực hiện chưa nghiêm. Một số nội dung chính sách DS-KHHGĐ thiếu chặt chẽ và thống nhất.

III. Bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.

 Một là, phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, đi đôi với việc kiểm tra thường xuyên sâu sát, có trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Biết  phát huy sức mạnh các ban, ngành, đoàn thể trên cơ sở hợp đồng trách nhiệm, lồng ghép nội dung dân số với các hoạt động chương trình khác của các ngành, các cấp và các đoàn thể xã hội.

Hai là, công tác dân số, gia đình và trẻ em phải được xã hội hoá cao, thu hút sự tham gia tích cực của cả cộng đồng dân cư. Chương trình DS-KHHGĐ chỉ có thể thành công khi có đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên từ tỉnh đến cơ sở nhiệt tình, luôn được kiện toàn, củng cố, được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.

Ba là, công tác truyền thông luôn đổi mới cả nội dung lẫn phương pháp, triển khai có trọng tâm, trọng điểm, đi đôi với việc đáp ứng kịp thời đa dạng các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ.

Bốn là, quản lý công tác DS-KHHGĐ theo chương trình mục tiêu, phân bổ kinh phí công khai ngay từ đầu năm, phân cấp rõ ràng trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa tỉnh và huyện để chủ động triển khai các hoạt động. Kinh phí được bố trí đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu  của nhiệm vụ, không nên chia xẻ, cắt giảm.

Năm là, xây dựng, thử nghiệm, triển khai các mô hình hoạt động dân số có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm lý, điều kiện sống của từng nhóm đối tượng, cần được đánh giá, tổng kết và nhân rộng.

Sáu là, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá là khâu không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ nhằm phát hiện những yếu kém, sai sót và có biện pháp uốn nắn kịp thời.

 

PHẦN THỨ HAI

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ THỰC HIỆN

CÔNG TÁC DÂN SỐ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH

TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2010

 

I. Mục tiêu

1. Mục tiêu tổng quát:

Phấn đấu đạt mục tiêu ổn định qui mô dân số, từng bước thực hiện nâng cao chất lượng dân số về thể lực, trí tuệ và tinh thần. Tiếp tục duy trì mức giảm sinh vững chắc, đặc biệt giảm nhanh tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, phấn đấu đạt mức sinh thay thế vào năm 2010. 

2. Mục tiêu cụ thể:

 Phấn đấu đến năm 2010 đạt các chỉ tiêu cụ thể như sau:

            - Dân số trung bình:                                   1.210.000 người

            - Tỷ suất sinh :                                                  15,5%

            - Tỷ lệ sinh là con thứ ba trở lên :                       15%

            - Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số:                  1,2%

            - Tỷ lệ cặp vợ chồng áp dụng BPTT:                    70 %

II. Nhiệm vụ và giải pháp

1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách DS-KHHGĐ của các cấp và các ngành

- Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp cần quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết 47/NQ-TW của Bộ chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ, Nghị quyết chương trình hành động của Thường vụ Tỉnh ủy, quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh về tiếp tục thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ; cần kiểm điểm đánh giá đúng mức tình hình thực hiện chính sách DS-KHHGĐ của địa phương, đơn vị; có kế hoạch và biện pháp khắc phục những yếu kém, bất cập, kiên quyết ngăn chặn khuynh hướng sinh nhiều con. Định kỳ 6 tháng và cuối năm phải có kiểm điểm nghiêm khắc việc thực hiện các mục tiêu chính sách DS-KHHGĐ.

- Đưa công tác DS-KHHGĐ thành một nội dung quan trọng trong chương trình hoạt động của các cấp ủy Đảng và chính quyền, các ngành, đoàn thể, xem đây là một tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Hàng năm, 5 năm, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương phải có những chỉ tiêu cụ thể về DS-KHHGĐ.

- Lãnh đạo chủ chốt của địa phương, đơn vị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thường xuyên giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện công tác này và kiên quyết chỉ đạo đạt được các mục tiêu DS-KHHGĐ đã đề ra.

- Hàng năm nếu đơn vị không đạt được chỉ tiêu hạ thấp tỷ lệ sinh con thứ 3 trở  lên so với kế hoạch thì cương quyết không được công nhận bất cứ một danh hiệu thi đua nào.

- Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu thực hiện, đồng thời tuyên truyền, vận động gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, coi đó là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ, xem xét đề bạt, đề cử cán bộ vào các chức vụ lãnh đạo của các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.

- Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách DS-KHHGĐ theo các qui định của Đảng, Nhà nước. Cương quyết không đề cử, tuyển dụng những người vi phạm chính sách dân số vào trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp. Không đề bạt, đề cử vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền các cấp và đưa ra khỏi các chức danh lãnh đạo đối với cán bộ công chức, viên chức nhà nước vi phạm chính sách DS-KHHGĐ.

2. Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục tuyên truyền thay đổi hành vi

- Tuyên truyền rộng rãi, hướng dẫn cụ thể để cán bộ và nhân dân hiểu đúng các chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về chính sách DS-KHHGĐ, nội dung Nghị quyết 47/NQ-TW, Chương trình hành động của Chính phủ, Nghị quyết chương trình hành động của Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục thực hiện công tác DS-KHHGĐ, Pháp lệnh dân số, Nghị định 104/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh dân số và quyết định số 4043/2005/QĐ-UBND ngày 30/11/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về thực hiện chính sách dân số trong giai đoạn mới.

- Tăng cường năng lực quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, vận động thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của các ban ngành đoàn thể và cộng tác viên dân số, gia đình và trẻ em ở thôn, xóm, bản, làng.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, tâm lí, tập quán sinh đẻ trong toàn xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đông dân, vùng có mức sinh cao, tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên cao. Vận động toàn xã hội chấp nhận và thực hiện mỗi cặp vợ chồng có một đến hai con, coi việc dừng ở hai con là nghĩa vụ của mọi người dân để góp phần giảm bớt gánh nặng về dân số của đất nước, của tỉnh nhà. Việc tuyên truyền, vận động phải sâu sát, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng. Chú ý vận động những gia đình đã có hai con để họ không sinh con thứ ba. Việc tuyên truyền, vận động phải đa dạng hoá về hình thức và nội dung. Chú trọng công tác tuyên truyền ở cơ sở.

- Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức và hiểu biết về dân số, SKSS/KHHGĐ, giới và giới tính cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, trẻ vị thành niên, phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục      HIV/ AIDS, có thai ngoài ý muốn...

- Phối hợp, mở rộng và nâng cao chất lượng chương trình giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình trong và ngoài nhà trường cho vị thành niên và thanh niên. Vận động, thuyết phục những người cao tuổi nhắc nhở con, cháu thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.      

- Phối hợp các cơ quan truyền thông và sử dụng đa dạng các loại hình tuyên truyền để vận động, giáo dục đến từng gia đình, từng người dân.

- Xây dựng và nhân rộng các mô hình truyền thông có hiệu quả như: mô hình chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ, mô hình cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên, mô hình khám và tư vấn SKSS tiền hôn nhân.... Khen thưởng những cộng đồng, gia đình có nhiều thế hệ chấp hành nghiêm túc quy định của Nhà nước về DS-KHHGĐ.

3. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình

- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống cung cấp dịch vụ, chăm sóc SKSS/KHHGĐ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho người sử dụng biện pháp tránh thai thường xuyên cũng như trong các đợt chiến dịch.

- Phát huy hiệu quả đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ y tế tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ. Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm tư vấn dịch vụ DS,GĐ&TE.

- Tổ chức tốt việc cung cấp các phương tiện tránh thai phi lâm sàng đến tận nhà, từng người thông qua đội ngũ cộng tác viên cơ sở: đẩy mạnh tiếp thị xã hội, bán rộng rãi các phương tiện tránh thai thông qua các đoàn thể và các đơn vị tư nhân. Khuyến khích các tổ chức xã hội và tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ này.

- Uỷ ban DS,GĐ&TE phối hợp với ngành Y tế tập trung triển khai các loại hình cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ phù hợp đối với từng vùng. Tăng cường các chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đối với vùng khó khăn, vùng nông thôn, vùng đông dân có mức sinh cao và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao. Khuyến khích việc cung cấp dịch vụ tại chỗ, thường xuyên ngoài các đợt chiến dịch. Chú ý đúng mức đến việc đáp ứng nhu cầu tư vấn đối với vị thành niên, thanh niên. Lồng ghép hoạt động cung cấp tư vấn, dịch vụ kế hoạch hoá gia đình với phòng, chống HIV/AIDS.

4. Củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực quản lý

- Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác DS,GĐ&TE từ tỉnh đến cơ sở đủ mạnh để quản lý và tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động và đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân. Đặc biệt, quan tâm, củng cố, ổn định, nâng cao năng lực hoạt động của Ban DS,GĐ&TE, bố trí trưởng ban DS,GĐ&TE xã, phường, thị trấn phải là Chủ tịch UBND cùng cấp, cán bộ DS,GĐ&TE là Phó ban DS,GĐ&TE và xây dựng đội ngũ cộng tác viên DS,GĐ&TE ở các thôn, xóm, bản, làng.

- Có chính sách khuyến khích thỏa đáng về tinh thần và vật chất đối với đội ngũ cán bộ DS,GĐ&TE. Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đối với cán bộ DS,GĐ&TE ở xã, phường, thị trấn, dần dần đưa đội ngũ cán bộ này thành cán bộ chuyên trách được hưởng lương, thuộc biên chế của UBND xã, phường, thị trấn.

- Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ chuyên trách DSGĐ&TE huyện và xã, phường, thị trấn, chú trọng việc nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng tư vấn của đội ngũ cộng tác viên DS,GĐ&TE.

- Thực hiện quản lý, điều hành công tác DS-KHHGĐ theo chương trình mục tiêu quốc gia, tiếp tục áp dụng cơ chế phân cấp và phối hợp liên ngành đã khẳng định được hiệu quả cao trong thời gian qua, đồng thời nghiên cứu và áp dụng cơ chế mới phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.

- Tăng cường và nâng cao chất lượng hệ thông tin về DS-KHHGĐ, thực hiện việc đăng ký dân số, xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất toàn tỉnh đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội  và quản lý điều hành công tác DS-KHHGĐ ở các cấp.

5. Nâng cao chất lượng dân số

- Thực hiện các chính sách về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, thanh thiếu niên và người cao tuổi. Nâng cao năng lực, hướng dẫn tổ chức, phát động các phong trào rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khoẻ, giữ gìn vệ sinh và cải thiện môi trường sống tại cộng đồng.

- Triển khai mở rộng mô hình kiểm tra sức khoẻ - tư vấn tiền hôn nhân, đẩy mạnh phòng, chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội; giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng; mở rộng phạm vi thực hiện mô hình gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, dự án tín dụng gia đình, tổ chức phục hồi chức năng cho trẻ em và người khuyết tật....

- Ưu tiên triển khai các chương trình, dự án nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng mới định cư và các nhóm đối tượng thiệt thòi.

- Tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học trong thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng dân số.

6. Hoàn thiện hệ thống chính sách và thực hiện xã hội hoá công tác DS-KHHGĐ

 - Tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách DS-KHHGĐ của địa phương phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, đảm bảo đủ mạnh để thực hiện nghiêm túc chính sách DS-KHHGĐ, đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp sinh con thứ 3 trở lên. Có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng làm tốt công tác DS-KHHGĐ.

- Xây dựng chế độ chính sách đối với  người thực hiện DS-KHHGĐ và có chế độ thỏa đáng động viên đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ nhất là cấp cơ sở.

- Quá trình xây dựng hương ước, quy ước của địa phương phải đưa các mục tiêu, chỉ tiêu chính sách DS-KHHGĐ vào nội dung hương ước, quy ước. Trường hợp hương ước, quy ước đã  được phê duyệt và đang được thực hiện mà chưa có hoặc có chưa đầy đủ nội dung về chính sách dân số thì cần phải bổ sung thêm phần chính sách DS-KHHGĐ. Trường hợp hương ước, quy ước đang được xây dựng thì cần đưa ngay nội dung chính sách DS-KHHGĐ vào trước khi thông qua hoặc trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt.

- Nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành, mặt trận và các đoàn thể, đồng thời huy động các tổ chức xã hội và các thành phần kinh tế tích cực tham gia công tác này.Vận động toàn dân tham gia công tác DS-KHHGĐ. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho mỗi gia đình, mỗi người dân tự nguyện thực hiện chính sách DS-KHHGĐ để công tác DS-KHHGĐ ngày càng được xã hội hoá cao hơn.

7. Tăng cường đầu tư nguồn lực và cải tiến cơ chế quản lý

- Cùng với ngân sách hỗ trợ từ Trung ương, các cấp, các ngành tăng mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước, tích cực tranh thủ các nguồn viện trợ và lồng ghép các hoạt động, bảo đảm đủ kinh phí thực hiện công tác DS-KHHGĐ. Bổ sung thêm mục chi ngân sách cho công tác DS,GĐ&TE ở cấp huyện, thành phố, xã/ phường/ thị trấn để địa phương chủ động huy động nguồn lực.

- Ưu tiên đầu tư cho các vùng đông dân có mức sinh cao, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và các nhóm đối tượng là người nghèo, vị thành niên, thanh niên.

- Tích cực tranh thủ các nguồn vốn viện trợ, nguồn vốn vay ưu đãi đảm bảo tổng mức đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ đạt 0,6 đôla Mỹ/người/năm trong đó ngân sách Nhà nước đảm bảo 70-80%.

- Cải tiến cơ chế quản lý nguồn vốn, thực hiện quản lý điều hành theo chương trình mục tiêu quốc gia, phân bổ đầy đủ, tương ứng với mục tiêu được giao và công khai nguồn kinh phí. Phân cấp hợp lý và áp dụng phương thức hợp đồng trách nhiệm giữa cơ quan quản lý chương trình mục tiêu với các cơ quan tham gia thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo việc thực hiện nguồn lực đúng mục tiêu có hiệu quả cao.

IV. Tổ chức thực hiện

 Cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, các ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội  từ tỉnh đến cơ sở phối hợp xây dựng triển khai kế hoạch của đơn vị mình để thực hiện chương trình hành động theo chức năng nhiệm vụ được Nhà nước quy định.

1. Đối với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh: là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về DS,GĐ&TE chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan xây dựng và tổ chức triển khai, thực hiện các chương trình dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và các hoạt động của địa phương về công tác dân số.

Tham mưu xây dựng các chính sách, luật pháp về dân số, lồng ghép chương trình DS-KHHGĐ với các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác.

Phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính và các cơ quan liên quan thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ DS,GĐ&TE xã, phường, thị trấn, đồng thời tăng mức phụ cấp cho cán bộ này tương đương với phụ cấp hàng tháng của cán bộ chuyên trách xã. Tăng mức thù lao đối với cộng tác viên DS,GĐ&TE cơ sở tương ứng với nhiệm vụ mới.

2. Đối với các sở, ban ngành:

Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm đảm bảo cân đối đủ nguồn lực thuộc chương trình mục tiêu quốc gia dân số, lồng ghép các mục tiêu của Chương trình DS-KHHGĐ với các chương trình khác nhằm phục vụ cho mục tiêu chung phát triển kinh tế - xã hội.

Sở Tài Chính có trách nhiệm cân đối đề xuất bổ sung ngân sách cho các hoạt động thực hiện chương trình DS-KHHGĐ theo mục tiêu kế hoạch của địa phương; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí theo đúng luật ngân sách và các qui định hiện hành.

Sở Y tế có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc sức khoẻ sinh sản; phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện đáp ứng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ, ưu tiên ở các vùng khó khăn, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa.

Sở Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ sung các quy định theo quyết định 4043/2005/QĐ-UBND ngày 30 tháng 11 năm 2005 “Về việc ban hành một số chính sách DS-KHHGĐ” để các cấp, các ngành căn cứ khi xét công nhận đơn vị, làng, thôn, bản văn hoá. Các cơ quan thông tin đại chúng tăng cường phối hợp với Uỷ ban DS,GĐ&TE đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến những chủ trương, chính sách về DS-KHHGĐ, kịp thời nêu gương người tốt việc tốt và phê phán những tập thể, cá nhân vi phạm chính sách DS-KHHGĐ.

Sở Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện chương trình giáo dục dân số, giáo dục giới tính trong nhà trường và các hoạt động ngoại khoá khác liên quan đến dân số - sức khoẻ sinh sản. Đẩy mạnh tuyên truyền sức khoẻ sinh sản cho vị thành niên, thanh niên trong các trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học.

Sở Khoa học & Công nghệ có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban DS,GĐ &TE về những nghiên cứu khoa học liên quan đến DS,GĐ &TE.

Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, hỗ trợ cho các gia đình phát triển kinh tế trên cơ sở tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiệp; đẩy mạnh hệ thống dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ, chế biến và tiêu dùng. Thực hiện tốt dự án tín dụng gia đình ở các đơn vị triển khai.

Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và các cấp, các ngành hữu quan tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực DS-KHHGĐ. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DS-KHHGĐ trong toàn dân.

Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh  chỉ đạo các tổ chức thành viên, phối hợp với Uỷ ban DS,GĐ&TE đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cán bộ và nhân dân thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ gắn với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" trong việc xây dựng qui chế và hương ước của cộng đồng nhằm thực hiện tốt hơn chương trình hành động DS-KHHGĐ.

Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hội Nông dân tỉnh vận động hội viên tham gia những hoạt động thực hiện bình đẳng giới và tăng cường chăm sóc SKSS/KHHGĐ. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia các hoạt động liên quan đến SKSS vị thanh niên và thanh niên trẻ. Liên đoàn Lao động tỉnh có trách nhiệm chăm lo hạnh phúc cho gia đình công nhân viên chức, lao động. Hội người cao tuổi tham gia hoạt động chăm sóc về sức khoẻ và tinh thần người cao tuổi; Hội chữ thập đỏ, Hội KHHGĐ tham gia chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, SKSS/KHHGĐ cho các đối tượng bị thiệt thòi.

Ngoài ra các ban ngành, đoàn thể liên quan khác xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình hành động này phù hợp với điều kiện của đơn vị góp phần thực hiện mục tiêu chính sách dân số của tỉnh nhà.

3. Đối với Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố: căn cứ chương trình hành động của tỉnh xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện công tác DS-KHHGĐ tại địa phương phù hợp đạt hiệu quả cao nhất.

4. Giám đốc các sở, Thủ trưởng các cơ quan ban ngành cấp tỉnh, các cơ quan đơn vị trung ương đóng trên địa bàn, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc chương trình hành động của UBND tỉnh về thực hiện công tác DS-KHHGĐ và có biện pháp thực hiện đồng bộ các nội dung chính sách dân số nhằm duy trì mức giảm sinh trong tỉnh; phấn đấu đến năm 2010 đạt mức sinh thay thế.

Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện chương trình hành động của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các địa phương và định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân tỉnh tình hình thực hiện chương trình hành động này.

                                                        

                                                                                       UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH

TM. Ủy ban nhân dân

KT. CHỦ TỊCH
Phó Chủ tịch

(Đã ký)

 

Ngô Hòa

Tải file đính kèm
 
This div, which you should delete, represents the content area that your Page Layouts and pages will fill. Design your Master Page around this content placeholder.